Qua nhiều thế kỷ, tôn giáo thường bị điều khiển bởi các vị vua và giới cầm quyền để khuất phục người dân của họ trong một hệ thống "nhà thờ" do nhà nước điều hành. Tôn giáo thật mà Đức Chúa Trời đã tạo ra hàng ngàn năm trước cho dân Y-sơ-ra-ên nhằm hướng Nữ nhà văn người Pháp Annie Ernaux. Trong thông báo đăng trên trang Nobelprize.org chiều ngày 6-10, ủy ban trao giải nhận định giải Nobel văn học năm 2022 được trao cho tác giả người Pháp Annie Ernaux "vì lòng dũng cảm và sự nhạy bén" mà bà đã dùng để khám phá ra "gốc rễ, sự ghẻ lạnh và những hạn chế chung của Nguồn gốc hình thành "wibu" gắn liền với xuất xứ của "weeaboo". Qua đó, "weeaboo" là một từ lóng, tiền thân là từ "wapanese" được ghép bởi "wannabe" và "white". Khi dịch ra tiếng Việt, nó sẽ được hiểu là người da trắng phát cuồng với văn hóa Nhật Bản, thường sẽ là Anime, Manga và Hentai. 5 ồNgu n Gốc Văn Hoá Việt Nam - Kim Định www.vietnamvanhien.net I.NỀN MÓNG CỦA VIỆT NHO A. NHỮNG YẾU TỐ VĂN MINH CỦA LẠC VIỆT Trong "Việt lý Tố nguyên" có hai đề thuyết động trời một là Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Tàu trước người Tàu, hai là chính người Bách Việt đã chủ xướng ra Nho giáo, vấn đề cội nguồn của văn hoá và của tôn giáo hiển nhiên chỉ được đề cập đến trong các giai đoạn phát triển tương đối muộn của phân tâm học, một mặt phía chủ quan, khi mà nó tin rằng có thể vận dụng qui luật sinh lí - tâm thần cá nhân để giải thích được các hiện tượng xã hội quan trọng như vấn đề truyền thống, phong tục tập quán, tôn giáo và văn … Ra mắt không gian văn hóa Hồ Chí Minh với doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam. (NLĐO) - Tạp chí Doanh Nhân Sài Gòn phát động cuộc vận động sáng tác, phổ biến những ca khúc doanh nghiệp, doanh nhân với Bác; ca khúc cổ vũ lòng nhiệt huyết, hăng hái làm việc, sản xuất kinh doanh của jKvHsbk. các hiện thực văn học Đó là một phong trào văn học phát triển vào giữa thế kỷ XIX ở Pháp, sau đó lan sang phần còn lại của châu Âu và sau đó định cư ở châu Mỹ. Theo ý kiến ​​của các nhà phê bình, các nhà văn hiện thực đã chống lại phong trào lãng mạn đi trước họ. Không giống như các nhà văn lãng mạn, các nhà hiện thực đã viết về những người bình thường và cuộc sống của họ. Cuộc cách mạng của chủ nghĩa hiện thực văn học chủ yếu đạt đến thể loại tiểu thuyết. Mô hình thống trị của các tiểu thuyết trong nửa sau của thế kỷ XIX đã không còn là chủ nghĩa duy tâm lãng mạn đã thịnh hành trong phần đầu của thế kỷ đó. Tiểu thuyết văn học được nuôi dưỡng rất nhiều bởi những tiến bộ khoa học thời bấy giờ. Theo một cách rất đặc biệt, những tiến bộ trong nghiên cứu tâm lý đã cho các tác giả tài liệu để kết hợp vào tác phẩm những hoạt động bên trong tâm trí của các nhân vật của cách tương tự, các phong trào xã hội ảnh hưởng đến chủ đề của các tác phẩm. Sự di cư của người dân nông thôn đến các thành phố tìm kiếm cơ hội mới, sự ra đời của một tầng lớp trung lưu và cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra khung cho những cuốn tiểu thuyết thành công. Mặt khác, chủ nghĩa hiện thực văn học đã mở ra những cách thể hiện mới và đa dạng cho con người. Điều này có nghĩa là sự xuất hiện của các phong trào khác, chẳng hạn như chủ nghĩa tự nhiên. Cái sau bao gồm chủ nghĩa hiện thực được đưa đến cực độ của số1 Xuất xứ2 Đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực văn học3 tác giả và tác phẩm xuất Honoré de Balzac 1799-1850 Samuel Clemens 1835-1910 Fyodor Dostoyevsky 1821-18813,4 George Eliot 1819-1880 Gustave Flaubert 1821-18804 tài liệu tham khảoNguồn gốcSự khởi đầu của chủ nghĩa hiện thực văn học ở châu Âu được quy cho tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Pháp Honoré de Balzac. Những tường thuật về cuộc sống bình thường của người Pháp rất đáng chú ý vì sự chú ý cẩn thận đến từng chi tiết. Ông đã tiến hành nghiên cứu và tham khảo ý kiến ​​với các cộng sự để tìm hiểu thêm về các chủ đề cụ thể. Bằng cách này, Balzac đảm bảo mô tả cuộc sống và thói quen hàng ngày một cách trọn vẹn. Ông cũng làm cho các nhân vật của mình trở nên sống động thông qua sự tích lũy tỉ mỉ các chi tiết có liên quan đến môi trường. Ở Mỹ, viết dưới bút danh Mark Twain, Samuel Clemens là người tiên phong ban đầu của chủ nghĩa hiện thực văn học. Tác giả nổi tiếng này là đáng chú ý cho sự tái tạo trung thực của các mẫu giọng nói và từ vựng bản địa. Ngoài việc sử dụng tiếng bản địa, Twain đã đổi mới bằng cách tập trung vào các nhân vật thuộc tầng lớp trung lưu và thấp hơn. Trước đây, tiểu thuyết tập trung vào các nhân vật và kinh nghiệm của giới tinh hoa xã các nhà phê bình, Twain đã cách mạng hóa thể loại này bằng cách kết hợp các nhân vật bị phân biệt xã hội trong tác phẩm tiểu thuyết của mình. Tại thời điểm công bố, những lời chỉ trích đã được tạo ra trong một xã hội Hoa Kỳ cực kỳ bảo thủ. Trên thực tế, cuốn tiểu thuyết của ông năm 1884 Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn là một trong những cuốn sách bị cấm nhiều nhất ở các trường công lập ở Hoa Kỳ.. Đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực văn họcChủ nghĩa hiện thực văn học ra đời đối lập với chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy tâm từng là nhà tù của những người lãng mạn phải đối mặt với những ý tưởng và cảm xúc trái ngược xuất phát từ các tác phẩm hiện thực. Bằng cách này, cuộc sống hàng ngày bắt đầu được phản ánh khách quan trong các tác phẩm. Nỗ lực tái tạo một cách trung thực hiện thực của thời đại đã trở thành một điều bất biến trong các tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực văn học. Đặc biệt, đời sống nông dân và bóc lột sức lao động và sự khiêm khác, chủ nghĩa hiện thực văn học đối lập trực tiếp với các chủ đề huyền ảo trong văn học. Ngoài ra, nó sử dụng một ngôn ngữ đơn giản, không tô điểm và không có đường vòng, tìm kiếm một mô tả tỉ mỉ để có thể phản ánh hiện thực chính trị, con người và xã hội của thời điểm chủ đề được thảo luận là mối quan tâm xã hội và tâm lý của các nhân vật được khám phá. Nhân vật chính của những câu chuyện là những người bình thường. Tốt hơn là, họ là những người thuộc tầng lớp trung lưu và thấp hơn, những người không phải là nguồn cảm hứng trong chủ nghĩa lãng loại nhân vật chính của các tác phẩm, ngôn ngữ được sử dụng là ngôn ngữ hàng ngày của thời đại. Các giới hạn về kiểu đã được loại bỏ và các thanh ghi và cấp độ khác nhau được bảo giả và tác phẩm xuất sắcHonoré de Balzac 1799-1850Honoré de Balzac là một nhà báo và nhà văn nổi tiếng người Pháp. Ông được công nhận trên toàn thế giới với kiệt tác mang tên Hài kịch của con người, được viết từ năm 1830 đến 1850. Tác phẩm này bao gồm một loạt các tiểu thuyết liên kết với nhau thể hiện một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống của Pháp thời hậu Napoleon. Tác phẩm văn học sâu rộng của ông cũng có thể kể đến La piel de Zapa 1831, Những khổ sở nhỏ của đời sống vợ chồng 1830-1846, Đại tá Chabert 1832, Bác sĩ nông thôn 1833. Giống như Eugenia Grandet 1834 và Tìm kiếm tuyệt đối 1834.Cũng như vậy, ông rất nhớ về Papa Goriot 1834, cô gái có đôi mắt vàng 1835 và Nữ công tước xứ Langeais 1836. Theo cách tương tự với hoa huệ trong thung lũng 1836 và khối lượng của người vô thần 1836, trong số nhiều danh hiệu Clemens 1835-1910Được biết đến với bút danh của Mark Twain, Samuel Langhorne Clemens là một diễn giả, nhà văn và nhà hài hước nổi tiếng người Mỹ. Hai trong số tiểu thuyết của ông được coi là biểu tượng, Cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer 1876 và phần tiếp theo của nó Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn 1884.Các tác phẩm khác trong tiết mục của ông bao gồm Chú ếch nhảy nổi tiếng Calaveras 1865, Người vô tội ở nước ngoài 1869, A brega 1872. Ông cũng được nhớ đến với Hoàng tử và Người bắt đầu 1882, Cuộc sống trên Mississippi 1883 và A Yankee tại Tòa án của Vua Arthur 1889.. Fyodor Dostoyevsky 1821-1881Fyodor Dostoyevsky là một tiểu thuyết gia, nhà tiểu luận, nhà văn truyện ngắn, nhà báo và triết gia người Nga. Các tác phẩm văn học của ông khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tinh thần đầy mâu thuẫn của quốc gia gốc của ông vào thế kỷ tác phẩm có ảnh hưởng nhất của ông là Pobres gentes 1846, El doble 1846, Recuerdos de la casa de los muertos 1861-1862, Bị làm nhục và bị xúc phạm 1861, Hồi ức về tầng dưới 1864, Tội ác và hình phạt 1864, Tội ác và hình phạt , Kẻ ngốc 1869, Ác quỷ 1871-72, Thiếu niên 1875 và Anh em Karamazov 1879-80.George Eliot 1819-1880George Eliot là bút danh mà Mary Ann Evans được biết đến. Bà là một trong những tiểu thuyết gia người Anh hàng đầu của thế kỷ XIX. Ông đã phải sử dụng một bút danh nam để đảm bảo các tác phẩm của ông được thực hiện nghiêm túc tại thời điểm các tác giả thường kết hợp độc quyền với tiểu thuyết lãng tiểu thuyết đầu tiên của ông có tựa đề Adam Bede đã được xuất bản rất thành công vào năm 1856. Ông được theo sau bởi các tựa sách thành công khác như The Mill on the Floss 1860, Silas Marner 1861, Romola 1863, Middlemarch 1872 và Daniel Deronda. 1876 và những người khác. Gustave Flaubert 1821-1880Gustave Flaubert là một tiểu thuyết gia người Pháp về thời đại của chủ nghĩa hiện thực văn học. Ông là tác giả nổi tiếng của kiệt tác phổ quát mang tên Madame Bovary 1857. Flaubert mất 56 tháng để viết tác phẩm này và ban đầu bị bức hại vì bị coi là vô đạo tác phẩm ban đầu này, những người khác theo đó củng cố danh tiếng của ông như một nhà văn. Họ nhấn mạnh Salambó 1862, giáo dục tình cảm 1869, sự cám dỗ của San Antonio 1874 và Ba câu chuyện 1877, giữa một tác phẩm văn học phong liệu tham khảoCampbell, D. M. s / f. Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Mỹ, 1860-1890. Lấy từ công học trực tuyến. s / f. Chủ nghĩa hiện thực Lấy từ C. 2016, ngày 14 tháng 3. Chủ nghĩa hiện thực văn học của thế kỷ XIX. Lấy từ khoa toàn thư Britannica. 2018, ngày 17 tháng 5. Danh dự de Balzac. Lấy từ sử và cuộc sống. s / f. Đánh dấu Twain. Lấy từ S. 2012, ngày 13 tháng 4. Fyodor Dostoevsky, 1821-1881. Lấy từ sử BBC s / f. George Eliot 1819-1880. Lấy từ văn học. s / f. George Eliot 1819-1880. Lấy từ Điều làm nhiều người vô cùng ngạc nhiên là vào thời điểm này – dưới ánh sáng mới của khoa học – mà còn một số trí thức khoa bảng Việt Nam tung ra hai hỏa mù trong mặt trận văn hóa giữa Ta và Tàu 1 – Khuynh hướng xem văn hóa Việt Nam là bản sao của văn hóa Tàu Việt Nam cùng lắm cũng chỉ là một cành Nam của gốc Hán. 2 – Khuynh hướng đi tìm nguồn gốc văn hóa Việt Nam ở tận bên Tàu Khổng Tử đã công thức hóa, chữ nghĩa hóa văn hóa của đại tộc Bách Việt sống trên đất Tàu thành Ngũ Kinh và Tứ Thư. Khuynh hướng này cho rằng nếu bỏ Nho thì chúng ta chỉ tìm thấy ngọn chứ chưa đến tận gốc của văn hóa Việt. Khuynh hướng này đã “sáng tạo” ra quan niệm Nho giáo có bốn giai đoạn a Hoàng Nho, thuộc Tam Hoàng từ 4450-3080 trước Tây lịch. b Di Nho, thuộc thời vua Thuấn 2255 trước Tây lịch, vua Vũ 2205 trước Tây lịch. c Việt Nho, hay Nguyên Nho nội dung Việt Nho được Khổng Tử công thức hóa thành kinh điển của Nho giáo thời Xuân Thu 821 trước Tây lịch. d Hán Nho cũng là Nho giáo từ thời nhà Chu 1122 trước Tây lịch, nhưng bị sa đọa với sự xuyên tạc của nhà Hán Đông Lan Yêu Mến An Vi, nxb Văn Hiến năm 2004, tr. 194. Nói Nho giáo là của Trung Hoa thì quá chung chung, và do vậy, không có sức giải thích. Còn nói rằng chữ Nho cũng như đạo Nho thoạt kỳ thủy do người Bách Việt sống trên đất Tàu khởi sáng, rồi sau đó người Tàu hoàn bị thì có lẽ quá cực đoan và không có sức thuyết phục 95% người dân Việt sống trong xóm làng, cái nôi của văn hóa Việt Nam. Phải chăng văn hóa Việt Nam là bản sao của văn hóa Trung Hoa? Những quan niệm, ý tưởng sau đây phần lớn là dựa vào những điều mà tác giả Trần Quốc Vượng ghi trong cuốn Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, cộng thêm những gợi ý, ý kiến của tác giả Trần Ngọc Thêm ghi trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tác giả Cung Đình Thanh trong tìm về nguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh sáng mới của khoa học, tác giả Đào Văn Dương và tác giả Thường Nhược Thủy trong Đạo Sống Việt. Duới ánh sáng mới của khoa học khảo cổ học, nhân chủng học, dân tộc học, ngôn ngữ học, di truyền học, hải dương học v. v… , với những tài liệu vật chất lấy lên từ lòng đất Việt Nam, người ta đã chiếu rọi vào quá khứ hàng mấy vạn năm. Các nền văn hóa trên đất Việt. Chỉ cần đi sâu nghiên cứu văn hóa Hòa Bình thôi trước năm đến năm trước ngày nay chúng ta biết được cư dân hòa bình tiền thân của dân tộc Việt Nam đã thuần hóa cây lúa hoang thành cây lúa nước Oryza Sativa, thực hiện cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước từ năm đến năm trước đây, trong bối cảnh Đông Nam Á, có thiên nhiên phong phú và đa dạng. Trước đó cả ngàn năm cư dân Hòa Bình đã biết trồng cây có củ, cây ăn quả bầu bí, rau dưa v. v… Các nhà nghiên cứu đều đồng thuận nông nghiệp, nông nghiệp trồng lúa nước là khởi đầu văn minh nhân loại. Cuộc cách mạng nông nghiệp trồng lúa nước đánh dấu một bước tiến bộ vĩ đại trong đồi sống của cư dân Hòa Bình đã để lại cho chúng ta một niềm tự hào lớn. 1. Văn hóa Hoà Bình là nền văn hóa tiếp nối nền văn hóa Sơn Vi huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú thuộc hậu kỳ đá cũ, có tuổi từ năm đến năm trước ngày nay. Văn hóa Hòa Bình được quốc tế công nhận vào ngày 30 tháng giêng năm 1932, do Đại hội các nhà tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Nền văn minh trồng lúa nước vốn là nền văn minh của cư dân Hòa Bình đã tạo được thế quân bình bền vững của nền văn hóa xóm làng văn hóa truyền miệng, văn hóa chìm hay văn hóa vô ngôn, giữa con người và thiên nhiên Việt Nam trong khủng cảnh Đông Nam Á từ ngàn xưa chứ không phải thiên nhiên Tàu, thiên nhiên Hoàng Hà 2. Tiếp theo văn Hòa Bình là văn hóa Bắc Sơn huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn, với những chiếc rìu mài lưỡi nổi tiếng, cả thế giới đều biết. 3. Tiếp theo văn hóa Bắc Sơn từ trước năm đến năm trước ngày nay là văn hóa Phùng Nguyên Phú Thọ cách ngày nay khoảng 4. 500 năm, cội nguồn của văn minh sông Hồng. Đó là thời đại các vua Hùng dựng nước. Di tích văn hóa Phùng Nguyên được tìm thấy ở nhiều tỉnh Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng. 4. Tiếp theo văn hóa Phùng Nguyên là văn hóa Đông Sơn, có niên đại sớm là 2820 năm cách ngày nay, với trống đồng, trong đó có trống đồng Ngọc Lũ nổi tiếng trên thế giới. Trong lúc người Việt cổ xây dựng nền văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn thì cái nước mà ngày nay chúng ta gọi là Trung Hoa mới được tạo dựng lên ở mạn trung lưu Hoàng Hà, và nền văn minh Trung Hoa ban đầu là nền văn minh Hoàng Hà với ranh giới ba tỉnh bây giờ Sơn Tây Quê hương của Đế Nghiêu, Hà Nam quê Hạ Vũ, kinh đô của nhà Ân, Thiễm Tây Núi Kỳ sông Vị, quê hương của nhà Chu từ 1122 đến 25 trước Tây lịch. Nếu đầu óc không bị điều kiện hóa bởi văn hóa Trung Hoa thì đứng ở góc độ nào – văn hóa bác học hay văn dân gian – cũng nhận thấy sự khác biệt giữa văn hóa Việt và văn hóa Tàu. Vì văn hóa theo nghĩa rộng là thiên nhiên – môi trường sống – được thích ứng, biến đổi bởi con người để thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người. Nói cách khác, văn hóa là toàn thể các hình thái sinh hoạt về vật chất và tinh thần của con người trong cách thích ứng, tiếp xử với thiên nhiên và xã hội, lịch sử. Từ đó hình thành cách làm ăn chăn nuôi theo bầy, sống đồi sống du mục hay trồng trọt đời sống định cư với xóm làng, cách ăn, mặc, ở, cách ứng xư, thái độ của con người đối với thiên nhiên, vũ trụ, xã hội và lịch sử. Như vậy, nói một cách đơn giản thiên nhiên – môi trường sống – và lịch sử là những yếu tố cơ bản ảnh hưởng sâu rộng đối với con người trong việc hình thành văn hóa. Sự khác biệt giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa Trong những điều kiện đó, văn hóa Việt Nam văn minh sông Hồng và văn hóa Trung Quốc văn minh Hoàng Hà khác nhau từ căn bản Từ tiếng nói, lối sống, cách ăn, mặc, ở, lối suy nghĩ, cung cách ứng xử đến cội nguồn. Phải chăng giới trí thức khoa bảng Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong khi tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, tức nhìn lại chính mình để biết mình là ai? Đầu óc đã bị điều kiện hóa, chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Trung Hoa Nào thơ Đường, điển tích Tàu, tam cương ngũ thường v. v… , đôi khi quên đi cả thiên nhiên Việt mà họ đang sống như đã trình bày ở phần trên. Trái lại, người dân Việt nhận thấy sự khác biệt giữa Ta và Tàu dễ dàng. Tiếng nói khác. Ngày xưa Tàu mặc quần, Việt mặc váy cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không. Ngày nay, Ta mặc áo dài, Tàu mặc áo Xườn Xám của Mãn Thanh. Nón lá của ta khác hẳn nón vành ngang của Tàu. Tàu ăn cháo kê, bánh bao, dùng xì dầu. Ta ăn cơm, ăn xôi, ăn bánh chưng bánh dày, bát tương, chén nước mắm và đặc biệt đôi đũa là một sáng tạo của văn minh trồng lúa nước của Việt Nam. Từ địa hạt vật chất đôi đũa đã đi vào lĩnh vực tinh thần, triết lý Việt Nam Vợ chồng như đôi đũa có đôi, chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho đều; vơ đũa cả nắm, thủ tục ly hôn ngày xưa là bẻ đũa. Thời trước Khổng Tử Xuân Thu Chiến Quốc cho đến nhà Tần 221 trước Tây lịch Tàu ăn bốc ăn bánh bột luộc, bánh bao. Khi Tần Thủy Hoàng chiếm miền Nam sông Dương Tử và từ đời Hán trở đi người Tàu bắt đầu tiếp thu đôi đũa của dân trồng lúa nước ở phía Nam. Tàu ăn nhiều mỡ xứ lạnh ít rau. Ta ăn mỡ ít xứ nóng nhiều rau, đủ loại đủ màu, thường ăn rau sống nhiều hơn Tàu. Có thể nói là gì và hoa gì ăn được đều có mặt trong nồi canh của nông dân Việt đói ăn rau, đau uống thuốc. Nghệ thuật nấu ăn của Trung Quốc là đổ mỡ vào thức ăn để chiên, xào. Trái lại nghệ thuật nấu ăn của người Việt là nấu, nướng và luộc nghĩa là rút mỡ từ thức ăn ra điều này phù hợp với nghệ thuật ăn uống dùng ít mỡ trong bữa ăn theo tiêu chuẩn dinh dưỡng hiện đại. Càng ngược dòng lịch sử sự khác biệt càng sâu sắc. Lưu vực Hoàng Hà là khu vực khí hậu đại lục, lạnh lẽo, khô hạn, lượng mưa ít, lượng bốc hơi cao, có nhiều đồng cỏ mênh mông thích hợp cho nghề chăn nuôi theo bầy, kéo theo đời sống du mục nay đây mai đó lang thang trên cánh đồng cỏ. Lưu vực sông Hồng là khu vực khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, nước dư thừa, nhiệt đầy đủ với những đồng bằng thích hợp cho việc trồng trọt sống định canh định cư trong xóm làng. Đất trồng trọt của người Trung Hoa ban đầu ở cao nguyên và bình nguyên Hoàng Hà là hoàng thổ, do gió Tây mang lại. Đất trồng trọt của người Việt ở lưu vực các dòng sông là phù sa nâu, do sông cái sông con bồi đắp. Nông nghiệp Trung Hoa, khi người Hoa Hạ chiếm lưu vực sông Hoàng Hà, từ khởi thủy là nền nông nghiệp trồng khô. Nông nghiệp Việt Nam, từ ban đầu, là một nền nông nghiệp trồng nước, trồng lúa nước, sử dụng hệ thống ngập nước, ruộng Lạc theo nước thủy triều lên xuống, với hệ thống tuới nước đa dạng gàu dai, gàu sòng, kênh ngòi. Người Trung Hoa trồng túc – tiểu mễ hay kê – sau đó trồng cao lương, rồi trồng lúa mạch kiểu trồng khô. Người Việt trồng cây có củ khoai các loại và đặc biệt từ 6000 đến 7000 năm trước đây đã trồng lúa nước. Kỹ thuật trị thủy sông Hoàng Hà, người Trung Hoa khơi sâu và khơi nhiều dòng chảy. Trái lại, kỹ thuật trị thủy của người Việt là đắp đê. Ít nước trên mặt, người Trung Hoa phải đào giếng để tìm nguồn nước. Người Việt sống ở vùng sông ngòi chằng chịt, đầm đìa, hồ ao khắp nơi, quen sử dụng nước trên mặt. Ở Việt Nam ao rất đa dạng Ao nuôi cá, ao rau muống v. v… Ao đã đi vào cuộc sống tinh thần Đêm qua ra đứng bờ ao; trúc sinh trúc mọc bờ ao; ao thu lạnh lẽo nước trong veo. Người Trung Hoa ở nhà hầm, người Việt Cổ sáng tạo cái nhà sàn với mái cong độc đáo hình thuyền. Luật pháp của Tàu và Ta hoàn toàn khác nhau. Sau cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng thất bại Mã Viện tâu với vua Hán rằng luật Việt và luật Hán khác nhau đến mười điểm, và xin áp dụng luật Hán trên đất Việt Luật Hồng Đức đời Lê hoàn toàn khác hẳn luật Tàu. Sẽ trình bày vào một dịp khác. Tâm Việt Hồn Việt còn thì văn hóa Việt còn Người còn tâm Việt, hồn Việt nhìn vào đời sống hàng ngày nhận ra ngay sự khác biệt giữa Tàu và Ta Tiếng nói khác, cách chào hỏi khác Tàu Ăn chưa? Việt Mạnh khỏe không?, cách mặc khác, thức ăn khác, kỹ thuật nấu ăn khác, lối xưng hô khác Tàu nị ngô như Tây phuơng toi, moi, you me; Ta chú bác, cô, dì, cậu, mợ, anh, chị, em v. v… Đi lại ở miền khô, trên vùng cao nguyên, gần thảo nguyên, thuận lợi cho việc chăn nuôi ngựa, người Trung Hoa thường dùng ngựa, xe cộ trong kỹ thuật giao thông. Quân đội lấy ưu thế là kỵ binh. Lúc đầu người Trung Hoa lấy Ngựa làm biểu tượng cho dân tộc Tàu, sau đổi thành con vật mình ngựa đầu rồng, rồi đến Cọp và sau cùng là Rồng. Dân tộc Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng, miền sông nước chằng chịt với hồ ao khắp nơi, gắn trồng trọt với chài lưới, thuyền bè các loại trở thành phương tiện giao thông chính. Thế cho nên, người Việt từ thượng cổ đã nổi tiếng lặn giỏi, bơi tài, giỏi cùng thuyền. Yếu tố sông nước trong môi trường sống đã ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam. Từ cái làm trồng lúa nước đến cái ăn gạo, đạm thủy sản, chốn ở nhà sàn, sống trên thuyền bè, chợ thuyền, nhà sàn trên nước giao thông thuyền bè, cầu phao giải trí múa rối nước quân sự thạo thủy chiến cho đến cái chết thuyền táng đều liên hệ đến nước. Tổ tiên chúng ta lấy Tiên và Rồng làm biểu tượng của cội nguồn dân tộc Việt Nam. Người Việt mà có nhãn quan Tàu Người mang cặp mắt kiến Tàu – không còn tâm Việt, hồn Việt – nhìn vào đời sống của người Việt Nam thấy cái gì cũng là Tàu hoặc chịu ảnh hưởng Tàu hay từ Tàu mà ra. Chẳng hạn, đến như học giả Nguyễn Hiến Lê, một khi đã đeo cặp mắt kiến Tàu cũng không giữ được thái độ khách quan trong nhận định Đối với dân tộc Di, Địch, Khổng Tử không có tinh thần phân biệt chủng tộc, mà chỉ phân biệt văn hóa như khi ông bảo không nhờ công của Quản Trọng thì người Hoa Hạ đã bị gióc tóc mặc áo có vạt bên trái rồi Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, nxb Văn Nghệ năm 1992, tr. 188, dòng 11 đến 15. Văn hóa là linh hồn của một dân tộc. Vậy, kỳ thị phân biệt văn hóa mà không kỳ thị dân tộc, kỳ thị chủng tộc thì sao được? Hơn nữa, Khổng Tử xem dân tộc Di tức Bách Việt là dân mọi rợ trong lời phát biểu của ngài Cho đến nay dân chúng còn được hưởng ân đức của ông ấy. Không có Quản Trọng thì chúng ta phải gióc tóc và cài áo bên tả như người mọi rợ rồi Nguyễn Hiến Lê, lịch sử văn minh Trung Hoa, nxb Văn Nghệ năm 1993, trang 26, dòng 17 đến 19. Xem dân tộc Di là dân tộc mọi rợ mà cho rằng Khổng Tử không có tinh thần kỳ thị chủng tộc được sao? Điều đó cho thấy trí thức khoa bảng Việt Nam, một khi đã có nhãn quan Tàu thì các ông thánh Tàu có miệt thị tổ tiên mình cũng cố tìm cách đổi chữ, hoặc bóp méo đi hay thay đổi lối suy nghĩ để nuốt cho trôi liều thuốc đắng ngõ hầu bảo vệ những thần tượng mà mình đã trót tôn thờ từ lâu. Đối với 95% người dân Việt chất phác, hiền lương, thiện lành thì không có vấn đề. Còn giới trí thức khoa bảng trẻ Việt Nam, không đọc được chữ Tàu, hãy thận trọng trong khi nghiên cứu, tìm hiểu về Trung Hoa, phải đề cao cảnh giác những trí thức khoa bảng Việt Nam rành chữ Hán có thể họ bóp mép sự thật – vì vô tình bởi đầu óc bị điều kiện hóa bởi văn hóa Tàu hay có mưu đồ – sẽ đưa chúng ta vào con đường nô lệ tư tưởng Tàu với cách học nhập nô xuất nô. Như trên đã trình bày nô lệ tư tưởng là nô lệ từ trong tim óc, tức không còn tâm Việt hồn Việt. Từ đó phát sinh ra tinh thần vọng ngoại, sợ ngoại, trọng ngoại và ỷ ngoại để rồi giao sinh mệnh của dân tộc và đất nước mình cho ngoại bang. Là người Việt Nam, nếu không sáng suốt trong suy nghĩ, trong hành động, trong cách học về Trung Hoa học vô tình chúng ta sẽ trở thành đoàn quân gián điệp văn hóa cho Trung Quốc. Đã đến lúc chúng ta cần trở về với chính mình để hiểu rõ chân xác chính chính mình về mặt tri thức và tâm thức. Vĩnh Như Diễn đàn Việt Học Bài được đăng trên anviettoancau Tranh minh họa Lĩnh Nam chích quái – Tạ Huy Long. Nguồn gốc của văn họcKhi xét đến nguồn gốc của văn học là xét đến điều kiện lịch sử khách quan nào, nhu cầu xã hội tất yếu nào đã làm nảy sinh, tồn tại và phát triển của văn học. Ai cũng biết văn học là tiếng nói của tình cảm, là hình thức thuần nhị của tư tưởng, có tác dụng sâu rộng và bền vững trong đời sống của con người. Do đó, muốn hiểu biết sâu sắc vai trò lớn lao của nó trong đời sống, ta phải tìm hiểu nguồn gốc, bản chất và những quy luật cơ bản đích thực của nó trong đời sống xã hội của con quan niệm sai lầm, thô sơ về nguồn gốc văn họcTừ lâu đã tồn tại một quan niệm rất phiến diện cho rằng, văn học là sản phẩm của tinh thần, là quà tặng của thượng đế, rằng văn học không phải là sản phẩm của con người mà là tiếng nói thần linh thông qua con người. Trước khi có chủ nghĩa Mác ra đời, các nhà mĩ học như Căngtơ và Sile đã cho rằng nguồn gốc của văn học là khuynh hướng vươn tới thế giới vui vẻ của du hí để thoát li khỏi cuộc sống đầy những xiềng xích trói buộc con người. Quan niệm này lại được nhà triết học Anh Xpenxơ bổ sung bằng lí thuyết phát tiết sinh lực thừa. Theo Xpenxơ, con người cũng như động vật sau khi thỏa mãn nhu cầu vụ lợi thì chuyển sang hoạt động phát tiết sinh lực thừa. Hình thức tiêu phí sinh lực thừa đó là các trò chơi, trong đó có văn học và nghệ thuyết này có đề cập đến yếu tố vui chơi, một yếu tố khá đặc trưng của văn học, nhưng nó lại đối lập giữa văn học với lao động thực tiễn của con người nên cũng không cắt nghĩa được tại sao sự vui chơi của người nguyên thủy lại trở thành nghệ số học giả khác lại cho rằng, văn học bắt nguồn từ bản năng bắt chước. Thuyết bắt chước của họ là một thứ lí luận bắt chước tầm thường máy móc. Thứ lí thuyết ấy quan niệm quá đơn giản và hoàn toàn xem nhẹ tính tích cực sáng tạo của văn thế kỉ XX, lại có một số học giả cho rằng, văn học bắt nguồn từ tình cảm tôn giáo của con người. Chính tình cảm sợ hãi, sùng bái trước các lực lượng siêu nhiên làm nảy sinh các nghi thức tế lễ, ma thuật như cầu nguyện, tế lễ, nhảy múa Văn học nghệ thuật nảy sinh từ đó. Mặc dù, xét về hình thức, văn học nghệ thuật được xuất hiện ở dạng nguyên thủy là thuộc về các hình thức nghi lễ tôn giáo, nhưng nếu giải thích tôn giáo là nguồn gốc đích thực của nghệ thuật thì sự giải thích này cũng không thuyết phục, bởi vì cảm xúc tôn giáo là sự sợ hãi và bất lực trước tự nhiên của con người, còn văn học là những cảm xúc nhằm khẳng định con người, là cảm hứng chiếm lĩnh, chinh phục tự thể nói, tất cả các quan niệm trên đều chưa giải thích được nguồn gốc đích thực của văn học, bởi vì nhìn nhận văn học và nghệ thuật một cách duy tâm siêu hình và phiến gốc của văn họcVăn học cũng như những hình thái ý thức khác, không thể tách rời đời sống xã hội cho nên nói đến nguồn gốc của văn học, chúng ta không thể tìm nơi ở ngoài đời sống xã hội. Các tài liệu khảo cổ mới nhất ở Châu Phi cho biết cách đây 2 triệu 60 vạn năm, con người đã xuất hiện với công cụ bằng đá trong tay để săn bắt và xẻ thịt thú rừng. Tuy nhiên các hiện tượng nghệ thuật nguyên thủy được phát hiện trong các hang động lại có niên đại khoảng từ cách đây 4 vạn đến 1 vạn 2 nghìn năm trước công nguyên. Xem thế đủ thấy nghệ thuật xuất hiện rất nghĩa Mác cho rằng, điều kiện ra đời của văn học trước hết gắn liền với sự hoàn thiện của chủ thể sáng tạo ra nó là con người. Quá trình lao động đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện con người. Chính lao động đã góp phần làm cho đôi tay con người ngày càng phát triển, trở nên linh hoạt khéo léo, các giác quan con người ngày càng phát triển và hình thành ngày càng rõ nét những cảm xúc thẩm mĩ. Đó là quá trình làm cho con người có năng lực cảm thụ cái đẹp của khách quan và có năng lực sáng tạo ra văn học nghệ có lao động, con người như một chủ thể thẩm mĩ có khả năng hiểu biết, thưởng thức và sáng tạo cái đẹp dần dần xuất hiện. Một số quy luật của cái đẹp tự nhiên được nhận thức trong quá trình lao động, chiếm lĩnh đời sống. Trước hết, nhờ lao động, qua săn bắt, chăn nuôi, trồng trọt, xây dựng nhà cửa, làm ra các vật phẩm sử dụng hàng ngày con người nhận ra rằng, vật có ích nhất là vật hoàn mĩ, toàn vẹn nhất trong hệ thống đồng loại. Ví như cái cây ra nhiều quả nhất phải là cái cây tốt tươi nhất, xum suê nhất. Con vật cho nhiều thịt, nhiều sữa, mắn đẻ phải là con to béo, khoẻ mạnh nhất trong đàn. Hơn nữa, đồ vật đó phải hài hòa cân đối mới tiện dụng nhất cái bình, cái lọ phải hình thuôn tròn mới dễ sử dụng, cái nhà phải cân bằng mới đứng vững trước gió mưa. Cũng trong các thao tác lao động và kỹ thuật, ý thức về nhịp điệu, tỉ lệ, đối xứng, cân bằng xuất hiện. Con người bắt đầu nhận biết những phẩm chất khách quan của cái đẹp trong đời sống qua lao động, bắt đầu có ý thức thẩm thể bạn quan tâmNgày 31 tháng 7 năm 2023 là ngày lễ gì?Học bằng lái mô tô bao nhiêu tiền?CPU máy tính bao nhiêu là ổn?Lạm phát của Úc sẽ là bao nhiêu vào năm 2023?Học phí Hutech tăng bao nhiêu 1 năm?Tại sao chúng ta nhận thấy cái hài hòa, hoàn thiện, chỉnh thể là đẹp? Đó là vì do kinh nghiệm lao động, kinh nghiệm sống, con người hình thành tâm lí và kinh nghiệm về sự cân đối hợp lí, nhịp nhàng, toàn vẹn Điều đó không chỉ dẫn đến việc dễ chịu, thoải mái khi tiếp xúc, khi làm việc mà còn báo hiệu chất lượng cao của đối trong quá trình lao động, con người, có thể là lúc đầu chưa có ý thức, đã dần biết sáng tạo ra những vật phẩm có giá trị thẩm mĩ, tức là sáng tạo theo quy luật của cái tiếp xúc với muôn vàn sự vật, quy luật và hình thức tự nhiên, con người biết lựa chọn những tính năng, hình thức thích hợp để sử dụng. Vật phẩm được làm ra bao giờ cũng với mục đích thực dụng chai lọ để đựng nước, vải vóc để che thân, nhà cửa để che mưa che nắng nghĩa là phải đạt tiêu chuẩn có ích. Cái đẹp gắn với cái có ích là vì những vật phẩm được tạo ra không chỉ giúp thoả mãn nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu tinh thần, nghĩa là có sự dễ coi, vừa mắt, làm thích thú, vui vẻ, dễ chịu khi sử dụng và thưởng thức đối tượng. Khi con người biết dệt các loại vải và làm các đồ gốm có màu sắc, hoa văn, trang trí, kiểu dáng khác nhau là khi họ tạo ra các sản phẩm không chỉ để đáp ứng nhu cầu vật chất che thân, đựng, cất giữ mà đã chú ý tới sự thoả mãn tinh thần con người, bởi con người sẽ chọn vật phẩm nào mà họ cho là đẹp khi có quyền lựa chọn. Và thực chất, khi sáng tạo ra vật có ích, tiện lợi nhất cũng là khi sản phẩm trở nên hoàn thiện nhất về mặt sử dụng, nghĩa là nó cũng đạt được những tiêu chuẩn về các quy luật hình thức chuẩn mực, về sự cân đối, hài hòa, hoàn mĩ Con người dần sáng tạo ra của cải vật chất theo quy luật của cái đẹp Mác là như được sáng tạo bởi bàn tay con người, sản phẩm đều được tạo ra theo những thước đo và ý niệm của sự hài hòa, hoàn thiện, theo khuôn mẫu lí tưởng của đối tượng. Cái nhà là từ cái hang ẩn nấp được nâng lên. Quần áo dựa trên cơ sở bộ lông của muông thú. Loài người đã dùng chính quy luật của thế giới khách quan để thoả mãn nhu cầu chính mình. Theo Mác, đây chính là đặc điểm mang tính bản chất của nhân loại trong hoạt động sản xuất vận dụng thước đo của đối tượng để sáng tạo các vật phẩm mới lao động, bàn tay và các giác quan của con người ngày càng được rèn luyện. Con người ngày càng khéo léo hơn, tinh tế hơn trong việc tạo ra những giá trị thẩm mĩ của đời sống qua những vật phẩm như đền đài, cung điện, vải vóc, chai lọ, thảm Bàn tay và các giác quan khi phát triển đến một độ tinh tế nào đó, đã được gọi là những khí quan thẩm mĩ, bộc lộ năng lực thẩm mĩ của con người trong việc chiếm lĩnh đời trải qua hàng nghìn năm lao động để sinh tồn trong quá trình chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội, trong con người bắt đầu nảy sinh những tình cảm đẹp, tình cảm thẩm mĩ tình yêu quê hương, sự gắn bó với đất đai, niềm vui mùa màng bội thu, lòng cao thượng, sự vị tha, tình cảm cha con vợ chồngNhờ lao động, con người đã trở thành chủ thể thẩm mĩ, có khả năng mĩ cảm, biết thưởng thức và sáng tạo ra cái đẹp. Quá trình hình thành mĩ cảm chính là quá trình nhân hóa tự nhiên, quá trình sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Bên cạnh việc sáng tạo ra những cái đẹp, những giá trị thẩm mĩ ít nhiều tự phát ấy, con người dần có ý thức tạo ra những ngành sản xuất chuyên biệt về cái đẹp sáng tạo nghệ thuật ra vậy là lao động chẳng những sáng tạo ra chủ thể thẩm mĩ mà còn trực tiếp sáng tạo ra các hiện tượng thẩm mĩ trong đời trong quá trình lao động đã hình thành mối quan hệ giao tiếp thông tin giữa người với người. Nhu cầu giao tiếp này đã kích thích sự ra đời của ngôn ngữ. Ăngghen đã chỉ ra rằng Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con trao đổi những nhận thức về đối tượng lao động, con người ngoài việc sử dụng những tín hiệu ngôn ngữ đã dùng những tín hiệu khác như biểu diễn bằng động tác, vẽ lại các đường nét, hình khối trên các vật liệu. Những tác phẩm nghệ thuật tạo hình đầu tiên của loài người xuất hiện vào khoảng thời kì đồ đá. Mầm mống của âm nhạc và thơ trữ tình bắt nguồn từ hình thức lao động tập thể. Lao động có tiết tấu thì có hiệu quả hơn, nó làm cho người ta tập trung sức mạnh trong những nhịp điệu chung. Ngày nay, trong các làn điệu dân ca, chúng ta vẫn tìm thấy cơ sở của nhịp điệu tiết tấu lao động như hò kéo gỗ, hò chèo thuyền, hò giã gạo, hò đạp nước Như vậy là trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại, mầm mống của văn học nghệ thuật đã nảy sinh trong quá trình lao động và trở lại phục vụ lao động, góp phần làm cho lao động có hiệu quả hơn. Có thể nói, nghệ thuật thời nguyên thủy trước hết lấy đời sống lao động làm đối tượng miêu tả chẳng những thế nghệ thuật thời nguyên thủy còn phản ánh cuộc đấu tranh bền bỉ của người xưa, phản ánh ý chí đấu tranh bất khuất, niềm tin và ước mơ của chất xã hội của văn họcTheo quan điểm Mác Lênin, về bản chất, văn học nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng, nên nó tồn tại và phát triển theo những quy luật chung của đời sống ý thức xã hội như chịu ảnh hưởng của đời sống vật chất xã hội, chịu sự tác động lẫn nhau của các hình thái ý thức xã hội khác, mang tính kế thừa và phát triển trong lịch sử ý thức xã học chịu ảnh hưởng của đời sống vật chất xã hộiĐây chính là hệ quả của mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng. Văn học là hình thái ý thức nằm trong kiến trúc thượng tầng, chịu sự tác động chi phối của cơ sở kinh tế. C. Mác đã chỉ ra rằng Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, sự tồn tại của xã hội của họ quyết định ý thức của sở kinh tế thay đổi thì kéo theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Xét về mặt nội dung thì các tri thức, quan điểm, cảm hứng nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng đều do kinh tế và trình độ sản xuất quy định. Có thể nói, đời sống xã hội là cội nguồn nội dung phong phú không bao giờ cạn của nghệ thuật. Truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh phản ánh quá trình chống bão lụt của con người thời cổ. Thuỷ hử Thi Nại Am trình bày nguyên nhân và diễn biến các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới thời Tống ở Trung Hoa, Chiến tranh và hòa bình L. Tôn xtôi là đời sống Nga đầu thế kỉ đơn giản chỉ là miêu tả hiện thực đang xảy ra trong đời sống xã hội, văn học còn phản ánh tồn tại tinh thần con người, tức ý thức xã hội, như quá trình nhận thức và lí giải đời sống, các mô hình và quan niệm về thế giới, quan niệm đạo đức chuẩn mục, đời sống tình cảm con người. Ví như văn học mọi thời đại, cả phương Đông lẫn phương Tây đều lí giải về nguồn gốc tạo thành thế giới, tạo thành dân tộc Truyện Thần trụ trời, Nữ Oa vá trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ hoặc thể hiện quan niệm về mối quan hệ giữa con người và định mệnh Ơđíp làm vua Xôphốclơ, Truyện Kiều Nguyễn Du. Văn học do đó còn là một hình thái quan niệm nhân sống xã hội là yếu tố năng động phát triển, quy định sự tồn tại và phát triển của văn học về cả hình thức. Chẳng hạn, thần thoại chỉ ra đời trên cơ sở nghề nông phát sinh khi con người biết được quan hệ nhân quả của các hiện tượng tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, gió, mưa, lụt bão đối với canh tác chăn nuôi, nhưng họ không hiểu chúng và quy cho chúng một sức mạnh siêu nhiên của thần linh. Sự tan rã của công xã nguyên thủy, vai trò lớn lao của lãnh tụ trong chiến tranh bộ lạc đã làm xuất hiện thể loại anh hùng ca một thời đại anh hùng trong văn học. Khuynh hướng khẳng định nguồn gốc siêu nhiên của các lãnh tụ đã làm cho họ có bộ mặt nửa người, nửa thần Asin, Prômêtê, Thánh Gióng, An Dương Vương. Sự phát triển của thành thị, tầng lớp thị dân và nghề in làm cho hình thức tiểu thuyết khác hẳn truyện kể dân gian4. Các thể loại hài phát triển mạnh mẽ vào giai đoạn suy tàn của một chế độ, khi chế độ ấy bộc lộ hết mọi sự bất hợp lí của nó. C. Mác đã khẳng định, hài kịch nở rộ vào giai đoạn cuối chế độ phong kiến, giúp cho nhân loại rời bỏ quá khứ một cách vui vẻ. Văn học phải luôn thay đổi không ngừng để đáp ứng nhu cầu của thời đại vì lẽ đời sống vật chất xã hội quyết định đối với ý thức xã hội nói chung, văn học nói riêng, điều đó không có nghĩa là văn học chỉ là một hình thái ý thức thụ động, trái lại văn học cũng như các hình thái ý thức khác của kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối. Văn học cũng tác động trở lại đời sống xã hội một cách gián tiếp. Có thể tìm thấy tác dụng kìm hãm sự phát triển xã hội của các tác phẩm thể hiện tư tưởng thần quyền cũng như tư tưởng phong kiến, cổ hủ, phản động. Các tác phẩm đề cao tư tưởng ngu trung, ngu hiếu, đề xướng tiết liệt những thứ mà Lỗ Tấn gọi là lễ giáo ăn thịt người đã kìm hãm sự phát triển của cá tính và năng lực sáng tạo trong xã hội Trung Quốc cổ. Tư tưởng mệnh trời, đợi thời đầy rẫy trong văn học phong kiến đã hạn chế tính tích cực của con người, khiến bao nhiêu trí óc thông thái tìm ra sự an thân trong cảnh đời ẩn dật. Những tác dụng tiến bộ cách mạng văn nghệ đối với cơ sở là rất lớn văn nghệ Phục hưng đã làm sống lại tư tưởng nhân đạo, giải phóng cá tính; tiếng cười trong văn học dân gian đập phá tôn ti trật tự phong kiến, hạ uy thế thần quyền; chủ nghĩa Khai sáng đổi mới cách tư duy trung cổ; văn học cách mạng vô sản kêu gọi đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và mở ra viễn cảnh mới cho lịch sử, dự báo tương lai5. Vì vậy, văn học mang tính khuynh hướng và tình cảm rõ học có ảnh hưởng qua lại với các hình thái ý thức xã hội khácVăn học nghệ thuật cùng với triết học, khoa học chính trị, đạo đức, tôn giáolà các hình thái ý thức xã hội. Chúng đều phản ánh tồn tại xã hội và đáp ứng các nhu cầu khác nhau của đời sống. Dù khác nhau về đối tượng, nội dung, phương thức tiếp cận và có tính độc lập tương đối, nhưng chúng vẫn có sự liên hệ và ảnh hưởng qua lại với nhau. Ở đây ta chỉ xét mối quan hệ văn học với một số các hình thái ý thức khác như khoa học, triết học và chính ra, thời xa xưa, con người chưa phân biệt rõ ràng hai loại tư duy nghệ thuật và tư duy khoa học như là hai loại tư duy riêng biệt. Các học thuyết toán học của Hi Lạp cổ gắn liền với cảm giác về sự hài hòa của vũ trụ. Trong triết học và sử học yếu tố khoa học và thẩm mĩ hòa trộn. Sử kí của Tư Mã Thiên vừa là sách lịch sử vừa là một tác phẩm văn học đồ học và khoa học Khoa học là tri thức khách quan về thế giới tự nhiên và xã hội được hệ thống hóa dưới dạng các quy luật, khái niệm, phạm trù, qua các công thức, phán đoán, suy lí, chứng minh Văn học cũng phản ánh, lí giải, phát hiện, cung cấp cho con người nhận thức được những quy luật và những vấn đề nào đó của cuộc sống, nhưng bằng hình duy khoa học giúp cho trình độ nhận thức văn học thêm sâu sắc. Chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX ở châu Âu không thể đạt trình độ khái quát cuộc sống sâu rộng, nếu không có các thành tựu khoa học tự nhiên và sử học đương thời. Để viết được bộ Chiến tranh và hòa bình, L. Tônxtôi đã phải đọc hàng trăm cuốn sách lịch sử. Chắc chắn kiến thức khoa học đã có tác dụng không nhỏ đối với tiểu thuyết viễn tưởng của Guyn ngược lại, văn học cũng như nghệ thuật lại giúp cho việc phát triển năng lực tưởng tượng, trực giác trong sáng tạo khoa học. Anhxtanh nói Trong tư duy khoa học bao giờ cũng có yếu tố thơ. Khoa học hiện đại và âm nhạc đòi hỏi một quá trình tư duy cùng loại. Đốtxtôiépxki cho tôi nhiều hơn bất cứ một nhà tư tưởng nào6. Có những khi, khoa học và văn học gặp gỡ một cách thật hài hòa các tác phẩm khoa học viễn tưởng của Guyn Vecnơ, các tiểu thuyết lịch sử của Alécxây Tônxtôi, các tùy bút, bút kí về địa lí của Prisvin, Nguyễn TuânBên cạnh đó, có những nhà văn, tuy không phải là nhà triết học, song đã trình bày được hệ thống triết học của mình. Nhà văn lớn thường có những tư tưởng lớn mang tính triết học cao. L. Tônxtôi trong Chiến tranh và hòa bình có quan điểm về triết học lịch sử đáng ghi nhận. Và ngược lại, nhiều nhà triết học lại mượn các hình thức văn học với các câu chuyện ngắn gọn để chuyển tải nội dung triết học Lão Tử, Mạnh Tử, Vônte, ĐiđơrôVăn học và triết học Văn học và triết học đều hướng nhận thức tới những vấn đề phổ quát của tồn tại con người, tìm kiếm con đường giải phóng con người, cắt nghĩa về thế giới. Trong các tác phẩm văn học, ta thấy không ít những triết lí sâu sắc về con người và cuộc sống con người một cách gợi cảm. Trong từng chặng đường phát triển của văn học, các dấu ấn của các trường phái triết học cũng in đậm trong các sáng tác của nhà văn. Ví dụ Hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão đối với văn học Phương Đông; triết học duy lí đối với văn học thời kì khai sáng phương Tây; triết học duy vật biện chứng đối với nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các hệ thống triết học này ảnh hưởng tới phương pháp nhìn nhận và đánh giá thế giới của văn học. Trong câu thơ Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua sân trước một cành mai, chính tư tưởng luân hồi của Phật giáo đã khiến nhà thơ có một cái nhìn bình tĩnh sáng suốt, ung dung dù đang ốm nặng Cáo tật thị chúng Mãn Giác thiền sư. Cũng tư tưởng luân hồi ấy đã hiện hình qua sự kiện cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần, không khuất phục cái Ác Tấm Cám.Văn nghệ và chính trị khác biệt nhau nhưng không đối lập, loại trừ nhau. Hứng thú nghệ thuật gắn với những rung động tâm hồn, niềm say mê. Chính trị nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn. Văn nghệ có thể phản ánh đời sống chính trị, còn chính trị biến lí tưởng xã hội thành hiện thực. Như vậy, ngoài sự khác biệt về hình thức, văn nghệ và chính trị không đối lập nhau về bản chất xã hội. Văn nghệ bày tỏ quan điểm chính trị theo cách của nó, cũng như chính trị có cách riêng để tác động tới văn học và chính trị Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, chính trị là những quan điểm, thái độ của một giai cấp nhất định. Nhưng chính trị không chỉ là một hình thái ý thức xã hội. Nó còn bao gồm pháp luật và những tổ chức hành chính phục vụ giai cấp đó. Trong các hình thái ý thức xã hội thì chính trị và văn học nghệ thuật có mối quan hệ đặc biệt gần gũi và tác động lẫn nhau một cách sâu sắc. Nội dung văn học nghệ thuật thường chứa đựng nội dung chính trị của giai cấp này hay giai cấp khác, bởi lẽ, quan điểm chính trị, các cuộc đấu tranh giai cấp, các vấn đề dân tộc đều là những nội dung sâu sắc của hiện thực mà văn học nghệ thuật cần phản ánh. Thí dụ, những bài thánh ca, những truyện về các vị thánh phục vụ hoạt động của tầng lớp tăng lữ; những bài hát, tranh vẽ, bài thơ ca ngợi cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kì 1945-1975. Nhưng đồng nhất chính trị với văn học là tước bỏ đặc trưng của văn lại, văn học không bao giờ tách khỏi đời sống kinh tế và đời sống tinh thần xã hội. Văn học luôn luôn chịu sự quy định của đời sống xã hội và chịu sự tác động qua lại, cũng như tác động tích cực trở lại đối với các hình thái ý thức xã hội luật kế thừa và sáng tạo của văn họcÝ thức xã hội nảy sinh do chịu ảnh hưởng của đời sống vật chất xã hội, nhưng nó lại mang tính bảo thủ, không biến mất hẳn trong những điều kiện vật chất xã hội mới. Bởi lẽ, những gì thuộc về kinh nghiệm, về thế giới quan, về nếp sống, nếp suy nghĩ thường có một sức sống dai dẳng, lâu bền, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng chúng cũng dần thay đổi để có thể phù hợp với những điều kiện mới. Đối với văn học cũng vậy, kế thừa và sáng tạo là quy luật cơ bản. Quy luật đó cho thấy sự vận động và phát triển của văn học trong tiến trình lịch kế thừa bao giờ cũng xuất phát từ nhu cầu nội dung. Do nhu cầu chống ngoại xâm mà văn học Việt Nam có sự kế thừa và phát triển liên tục chủ đề yêu nước, từ truyền thuyết Thánh Gióng, An Dương Vương đến văn học cách mạng hiện đại. Sự tiếp nối và tương đồng các điều kiện lịch sử, xã hội, địa lí, phong tục tạo thành các chủ đề lặp đi lặp lại mang tính truyền thống như yêu nước, nhân đạo, các môtíp nội dung như kiểu truyện Vọng Phu, truyện cô gái mồ côi được làm hoàng hậu, chàng trai nghèo được làm vuaBên cạnh đó, sự kế thừa các yếu tố hình thức như ngôn ngữ, thể loại, các phương tiện tạo hình, biểu hiện, các biểu tượng vừa làm dễ dàng cho sáng tác đời sau vừa là con đường ngắn nhất đối với sự tiếp nhận. Bởi đằng sau những yếu tố hình thức và nội dung ấy là những giá trị thẩm mĩ mang tính truyền thống, nó vừa quen thuộc, dễ hiểu, dễ được chia sẻ, vừa dễ gây xúc động, đồng cảm. Ví như, đối với người Việt Nam, các câu thơ lục bát mang theo những dư vang của câu ca, điệu hò, các hình ảnh, cây đa, bến nước, con đò gợi những hằng số tình cảm được tích tụ từ bao đồng thời với kế thừa là sáng tạo, đổi mới, phát triển. Sáng tạo và đổi mới luôn là kết quả của những nhu cầu thời đại mới và sự khẳng định cá tính sáng tạo cá nhân. Mục đích của kế thừa sáng tạo là làm nên những giá trị nghệ thuật không lặp lại, phát triển các khả năng chiếm lĩnh đời sống của văn nhiên, việc sáng tạo ra các giá trị mới không dẫn đến loại bỏ những giá trị đã được thừa nhận. Thời đại của thần thoại và anh hùng ca đã một đi không bao giờ trở lại, nhưng thần thoại và anh hùng ca vẫn hấp dẫn với đời sau bởi những giá trị đã kết tinh của chúng.Nguồn tham khảo Lê Lưu Oanh, Giáo trình lý luận văn học, ĐH Sư phạm Hà Nội các văn học đương đại hoặc phong trào đương đại bao gồm tất cả các biểu hiện văn học đã xảy ra kể từ thời hậu hiện đại. Nó được xác định bởi một thời kỳ nhưng cũng bởi phong cách rất đặc biệt của nó. Hầu hết các học giả gọi văn học đương đại là tất cả sản xuất văn học sau Thế chiến II, vào những năm 1940. Thời kỳ này kéo dài đến hiện tại. Văn học đương đại được đặc trưng bởi sự phân mảnh, người kể chuyện không đáng tin cậy, pastiche bắt chước phong cách và tác giả, thay đổi lời kể, trình bày và chơi phi tuyến tính và sự không chắc chắn trong ngôn ngữ. Theo cách tương tự, tài liệu này được công nhận bởi nội dung lịch sử hậu hiện đại. Điều này có liên quan đến thời đại của máy tính, robot, điện thoại di động, toàn cầu hóa, trong số những người khác. Bây giờ, một số tác phẩm hoặc một số nhà văn có thể được coi là đương đại nếu nó chia sẻ những phẩm chất phong cách, nghệ thuật hoặc chủ đề của thời hiện tại. Theo khái niệm này, thậm chí một số nhà văn của các thế kỷ khác có vẻ đương đại. Phần lớn văn học đương đại đến từ các tác giả phương Tây, mặc dù thuật ngữ này không dành riêng cho văn học châu Âu hay châu Mỹ. Trên thực tế, toàn cầu hóa đã cho phép chúng ta đánh giá cao các tác phẩm đương đại được viết bởi nhiều nhân vật văn học ở Trung Đông, Châu Phi và Châu Á. Ngoài tiểu thuyết và thơ, phong cách văn học này bao gồm nhiều thể loại khác nhau, chẳng hạn như tiểu thuyết truyền thống và các hình thức khác phù hợp với thực tế mới tiểu thuyết đồ họa hoặc văn học blog.Chỉ số1 Xuất Từ 1940 đến Từ năm 1990 đến nay2 Đặc Quan điểm cá Tài nguyên tường thuật sáng Hiện thực huyền Vấn đề nhắc Ảnh hưởng của Thế chiến Tiểu thuyết và phi hư cấu xếp chồng3 thể Thể loại tiểu thuyết kinh Văn học của nhà văn Tiểu thuyết đồ họa3,4 Văn học cho trẻ Khoa học viễn Tài liệu blog4 Văn học đương đại ở Mexico Đặc điểm Tác giả đại diện5 Văn học đương đại ở Tây Ban Đặc Tác giả đại diện6 Văn học đương đại ở Đặc Tác giả đại diện7 tài liệu tham khảo Nguồn gốcTừ 1940 đến 1990Trong quá trình nửa thế kỷ này, nhân loại đã chứng kiến ​​vô số thay đổi. Sự kết thúc của Thế chiến II, sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở châu Âu và sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã đánh dấu sự khởi đầu của một xã hội ra, những đổi mới công nghệ đã xuất hiện, như điện thoại di động và Internet, TV màu và đĩa kỹ thuật số DVD, trong số những thứ khác. Đó cũng là thời đại của âm nhạc mới, như hip hop, và sự chấp nhận các nền văn hóa toàn bộ làn sóng thay đổi này, văn học đã được làm phong phú với các thể loại mới. Nhiều trong số này là một phản ứng với những thay đổi công nghệ và thực tế xã hội mới. Một đặc điểm của văn học đương đại thời gian này là nhiều câu chuyện dựa trên thực tế và có cốt truyện đáng tin cậy. Trong hai thập kỷ đầu tiên, văn học đương đại đã chia sẻ không gian với Chủ nghĩa hiện đại, giữ lại một số tính năng nhất định, chẳng hạn như tập trung vào các nhân vật thay vì cốt sự phát triển sau này cho đến những năm 1990, đương đại đã thay đổi thành mô tả về thực tế cứng. Tương tự như vậy, anh tập trung chú ý vào việc phơi bày các vấn đề tâm lý như loại trừ và cô năm 1990 đến nayGiai đoạn từ những năm 1990 đến năm 2000 được đặc trưng bởi toàn cầu hóa, mối quan tâm ngày càng tăng về sự nóng lên toàn cầu và cuộc chiến chống khủng bố Hồi ra, đó là một thập kỷ được đánh dấu bởi các cuộc chiến tranh, thiên tai và dân số ngày càng tăng. Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất cũng xảy ra kể từ Đại suy thoái, suy thoái kinh tế năm 2008 và nhiều người mất việc. Do đó, văn học đương đại đã nhận được tất cả những ảnh hưởng này và được nuôi dưỡng bởi tất cả những bối cảnh mới này. Đáp ứng nhu cầu giao tiếp của xã hội, các thể loại mới đã xuất hiện. các mạng xã hội, các bưu điện, tiểu thuyết giả tưởng mới và sự trở lại với số liệu và vần điệu trong thơ là những dấu hiệu của thời đại mới. Tính năngQuan điểm cá nhânCác tác phẩm của văn học đương đại phản ánh quan điểm xã hội và chính trị của các tác giả của họ. Chúng được thể hiện thông qua các nhân vật, các kết nối với các sự kiện và thông điệp kinh tế xã hội của các tác phẩm của họ. Tài nguyên tường thuật sáng tạoCó một sự phá vỡ với các kỹ thuật kể chuyện trước đây. Văn học đương đại sử dụng các tài nguyên kể chuyện tiên phong, chẳng hạn như sửa đổi thời gian và trình bày thế giới nội tâm của các nhân thực huyền diệuSự phát triển của chủ nghĩa hiện thực huyền diệu như một kỹ thuật kể chuyện đại diện cho một bước đột phá trong văn học đương đại của thế kỷ XX. Kỹ thuật cách mạng này được đánh dấu bởi một nhân vật chính trị xã hội sâu vấn đề cấp báchHầu hết các chủ đề của văn học đương đại đều liên quan đến các vấn đề áp đảo của thế giới hiện nay, như toàn cầu hóa, chủng tộc và giới tính, bất bình đẳng, khí hậu và môi trường, chiến tranh và khủng bố. Tương tự như vậy, trong danh sách mở rộng này, bạn có thể tìm thấy các chủ đề khác, chẳng hạn như chính trị và kinh tế, đạo đức và đạo đức, văn hóa đại chúng và truyền thông, tội phạm quốc tế và các chủ đề khác..Ảnh hưởng của Thế chiến IICác tác phẩm của văn học đương đại có xu hướng bị ảnh hưởng bởi lối sống thịnh vượng sau Thế chiến II. Phong cách văn học này bắt nguồn từ sự tàn phá mà chiến tranh mang lại cho thế giới. Tiểu thuyết và phi hư cấu xếp chồngTrong văn học đương đại, sự phân biệt giữa tiểu thuyết và phi hư cấu có thể bị xóa nhòa; Điều này được gọi là chéo. Các tác giả tiểu thuyết dựa trên những câu chuyện về các sự kiện trong đời thực và thậm chí có thể bao gồm các tài liệu xác thực. Mặt khác, các nhà văn phi hư cấu làm cho các nhân vật lịch sử trở nên sống động bằng cách kết hợp các cuộc đối thoại và cảnh tưởng loạiThể loại tiểu thuyết kinh điểnThể loại này được tạo thành từ những câu chuyện, tiểu thuyết, vở kịch, thơ và phim. Mọi thứ đều là tưởng tượng và được phát minh, nhưng nó được trình bày như một tấm gương phản ánh cuộc sống và trải nghiệm của con người, theo một cách cụ thể hoặc trừu tượng. Bây giờ, cách đầu tiên để phân biệt tiểu thuyết đương đại là nó sẽ có những sự thật và cảm xúc phổ quát mà mỗi con người có thể trải nghiệm. Theo một cách nào đó, nó mang lại biểu hiện cho cảm tự, tiểu thuyết trong văn học đương đại là hiện thực, có nghĩa là nó có các đặc điểm sau- Nó chứa các nhân vật hành xử theo cách mà hầu hết độc giả sẽ. Các nhân vật phải đáng tin Câu chuyện lấy bối cảnh hiện tại..- Môi trường là một nơi thực sự, hoặc ít nhất nó có vẻ như là một nơi thực Sự kiện là những sự kiện có thể xảy ra trong cuộc sống Đối thoại là không chính thức và đàm thoại, và thường bao gồm các phương ngữ khu học của nhà văn maMột số lượng đáng ngạc nhiên của các cuốn sách thành công được viết bởi các nhà văn ma. Nhưng cũng có tiểu thuyết ma. Theo định nghĩa, các tác giả này không có tên và chỉ có đồng nghiệp và nhà xuất bản của họ, những người phụ thuộc vào họ biết họ..Tiểu thuyết đồ họaTiểu thuyết đồ họa thường được hiểu là phim hoạt hình với một câu chuyện dài dành cho khán giả trưởng thành, được xuất bản bằng bìa cứng hoặc mộc mạc và được bán trong các nhà sách, với các chủ đề văn học nghiêm túc và các tác phẩm nghệ thuật tinh học cho trẻ em20 năm qua đã chứng kiến ​​sự nở rộ của chữ viết cho trẻ em. Trong số các đại diện hàng đầu của tài liệu này là C. S. Lewis Biên niên sử Narnia và Rowling Harry Potter.Khoa học viễn tưởngKhoa học viễn tưởng là một nhánh rất phổ biến trong văn học đương đại. Điều này đan xen với tiến bộ công nghệ của thế nhiên, tác phẩm văn học của khoa học viễn tưởng không nhất thiết ngụ ý một cơ sở khoa học vững chắc. Một nhà văn có thể tạo ra một tác phẩm văn học khoa học viễn tưởng để thể hiện quan điểm hoặc khái niệm thay văn họcBlog tạp chí trực tuyến của tác giả cá nhân hoặc chung đã trở thành một phương tiện mới để tạo ra các tác phẩm văn học. Thậm chí, có những trường hợp những sáng tạo này đã trở thành sách. Văn học đương đại ở Mexico Tính năng Cho đến giữa những năm 1940, một số phong cách kể chuyện cùng tồn tại ở Mexico. Tường thuật hiện thực được kế thừa từ những năm 1900 vẫn tồn tại, và tiểu thuyết bản địa và những suy tư về văn hóa dân tộc và đang nổi năm 1947, ông bắt đầu văn học Mexico đương đại. Điều này đã bị ảnh hưởng bởi các nhà văn Mỹ và châu Âu. Tạp chí văn học nhóm các nhà văn đương đại và xuất bản các tác phẩm của họ xuất nhóm đã lấy tên của tạp chí tài trợ cho họ và làm cho tài trợ này trở thành một xu hướng văn chủ đề và kỹ thuật trần thuật trở nên trùng khớp với các chủ đề của các nhà văn đương đại khác từ các vĩ độ giả đại diệnJuan Rulfo 1917-1986Ông là một nhà văn, nhà biên kịch và nhiếp ảnh gia sinh ra ở bang Jalisco. Hai tác phẩm hay nhất của ông là Pedro Páramo và El llano en llamas. Cuốn thứ nhất là tiểu thuyết và cuốn thứ hai là tập truyện ngắn. Laura Esqu Xoay 1950-Nó được công nhận trên toàn thế giới với cuốn tiểu thuyết Como agua para chocolate, được ra mắt vào năm 1989. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành doanh thu số một ở Mexico trong ba năm. Đó cũng là chủ đề cho một bộ phim đình đám cùng Paz 1914-1998Ông nổi bật như một nhà văn, nhà thơ và nhà ngoại giao vĩ đại người Mexico. Trong sản xuất rộng rãi của ông, họ nhấn mạnh Mặt trăng hoang dã, Giữa đá và hoa, Mê cung của sự cô độc, Piedra de sol và Libertad en palabra. Hầu hết các tác phẩm của ông đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ trên khắp thế giới. Sau khi ông qua đời năm 1998, Octavio Paz trở thành nhà văn Mexico đầu tiên giành giải thưởng Nobel Hòa học đương đại ở Tây Ban NhaTính năngTừ năm 1975 đến nay, trong văn học Tây Ban Nha đương đại, có một sự xuất hiện của tiểu thuyết so với các thể loại khác. Bối cảnh văn học được bao phủ bởi tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết phiêu lưu, trong số những người tự như vậy, các vấn đề bị cấm trong quá khứ được thảo luận, chẳng hạn như tự do tình dục và các vấn đề liên quan khác. Sản phẩm văn học này được điều chỉnh bởi các thị trường xuất bản và giải thưởng văn cùng một thứ tự ý tưởng, văn học hiện có mối liên hệ chặt chẽ với sản xuất phim. Trong các tác phẩm chuyển thể, các nhà làm phim cố gắng chen vào những di sản của Tây Ban Nha và những đặc thù của xã hội giả đại diệnJavier Marías 1951- Ông được một số nhà phê bình coi là nhà văn Tây Ban Nha đương đại sống tốt nhất. Từ tác phẩm của mình, chúng ta có thể làm nổi bật các tiêu đề sau Corazon tan blanco và khuôn mặt của bạn vào ngày đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng Rómulo Gallegos năm 1994, Giải thưởng văn học quốc tế IMPAC tại Dublin năm 1997 và Giải thưởng Nhà nước Áo cho Văn học châu Âu năm Montero 1951-Cô đã được ca ngợi là cả một nhà báo và một tiểu thuyết gia. Tiểu thuyết của ông Chức năng Delta và Ngôi nhà điên, đã có những thành công lớn về văn học và thương đã giành được giải thưởng Qué Leer cho cuốn sách hay nhất được xuất bản ở Tây Ban Nha, và giải thưởng Grinzane Cavour của Ý cho cuốn sách nước ngoài hay nhất. Ông cũng đã nhiều lần giành giải thưởng báo chí quốc Vila-Matas 1948-Ông đã xuất sắc trong nhiều cách đánh giá phim, tiểu thuyết, tiểu luận và kịch bản phim. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Woman in the Mirror, khi ông còn là một thiếu các giải thưởng mà nó đã giành được, họ nhấn mạnh giải thưởng của Ý là Bottari Lattes Grinzane, giải thưởng Pháp Jean Carriere và giải thưởng Leteo của Tây Ban Nha. Các tác phẩm của Vila-Matas đã được dịch sang nhiều ngôn học đương đại ở ColombiaTính năngPhong trào văn học Colombia đương đại chịu ảnh hưởng rất lớn từ lịch sử chính trị của đất nước. Trong các chủ đề sản xuất tiểu thuyết như chiến tranh nội bộ, buôn bán ma túy, tham nhũng, trong số những người ra, bản sắc dân tộc đã trở thành hợp lệ. Bằng chứng về điều này là số lượng lớn các tác phẩm về lịch sử chính trị, văn hóa và xã hội của đất nước. Đồng thời, những cách kể chuyện mới lạ đã xuất hiện; một trong số đó là việc sử dụng chủ nghĩa hiện thực huyền giả đại diệnGabriel Garcia Marquez 1927- 2014Ông là một tiểu thuyết gia, người kể chuyện, nhà biên kịch và nhà báo người Colombia. Được biết đến như El Gabo trên khắp châu Mỹ Latinh, ông được coi là một trong những tác giả quan trọng nhất của thế kỷ 20 và là một trong những người giỏi nhất trong ngôn ngữ Tây Ban số nhiều sự công nhận của ông về đại diện không thể chối cãi này của chủ nghĩa hiện thực huyền diệu là Giải thưởng quốc tế Neustadt cho Văn học năm 1972 và Giải thưởng Nobel Văn học năm 1982. Trong số các tác phẩm văn học sâu rộng của ông có thể kể đến Một trăm năm cô đơn, Mùa thu của tộc trưởng, Tình yêu trong thời gian dịch tả và Biên niên sử của một cái chết được công Restrepo 1950-Cô là một nhà báo và nhà văn người Colombia được công nhận vì đã phát triển một sự pha trộn giữa thực tế và hư cấu để tạo ra một phong cách mà cô gọi là "phong cách báo cáo". Tác phẩm của ông làm nổi bật Isla de pasión, bò Las ăn mì spaghetti và tiểu thuyết Delirio của ông. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng này đã được trao giải thưởng Alfaguara năm Gabriel Vásquez 1973-Juan Gabriel Vásquez là một nhà văn nổi tiếng với tác phẩm El ruido de las cosas al caer. Trong tác phẩm này, người chiến thắng giải thưởng Alfaguara, nó xoay quanh việc buôn bán ma túy và bạo lực sau đó do Pablo Escobar gây ra. Tài liệu tham khảo Carnevale, J. s / f. Văn học đương đại là gì? - Định nghĩa & Phong cách viết. Lấy từ nghiên E. 2018. 11 tháng 3. Văn học đương đại là gì? Lấy từ S. s / f. Lịch sử và tuyển tập văn học Mỹ gốc Tây Ban Nha. Lấy từ s / f. Đặc điểm của văn học đương đại. Lấy từ thí nghiệm tâm thu. S / f. Văn học đương đại là gì? Lấy từ C. s / f. Văn học Mexico - Lịch sử và Khí hậu chính trị của Mexico. Lấy từ thelatino Tác A. 2018, ngày 10 tháng 1. 10 trong số các nhà văn Tây Ban Nha đương đại tốt nhất. Lấy từ C. 2017, ngày 11 tháng 6. 7 tác giả người Colombia đương đại không phải là García Márquez. Lấy từ R. 2012, ngày 19 tháng 11. Sự gia tăng của thể loại văn học. Lấy từ

nguồn gốc của văn học