Giá: 265 Tỷ Diện tích: 1000m². Địa chỉ: đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Đa Kao, Quận 1, Hồ Chí Minh. ( Quận 1 − Hồ Chí Minh) Bán Tòa 24 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phường Đa Kao, Quận 1. - Diện tích Đất: 11.47 x 27.15. - Diện tích xây dựng: 9x22m. - Diện tích mỗi sàn: 150 m2. - Diện 52B 52C Nguyễn Bỉnh Khiêm Phường Đa Kao Quận1. Bán nhà 52B 52C Nguyễn Bỉnh Khiêm Phường Đa Kao Quận1. Diện tích: 8,5m x 18m, 5 lầu. Vị trí cực đắc địa, gần đài truyền hình thành phố, cách Thảo Cầm Viên 500m, cạnh GEM Center, McDonald S, nằm ngay dự án trung tâm thương mại 33 Thủ Thuật về Trường Nguyễn Bỉnh Khiêm — Tây Hồ 2022. Cập Nhật: 2021-11-23 04:21:58,Quý quý khách Cần kiến thức và kỹ năng về Trường Nguyễn Bỉnh Khiêm — Tây Hồ. You trọn vẹn có thể lại Comments ở phía dưới để Tác giả đc lý giải rõ ràng hơn. Đang hoạt động giải Nhàn. Nguyễn Bỉnh Khiêm là "đại thụ" văn hóa của dân tộc vào thế kỷ XVI8. Ông từng thi đỗ Trạng Nguyên nhưng chỉ làm quan trong triều tám năm. Sau đó ông liền cáo quan về quê, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, mở trường dạy học, vừa làm thơ vừa truyền đạt tri thức Bác, phục đô tòng thái cực tiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm: Dịch thơ: Ngán nỗi can qua mãi thế ư, Nhân dân mong được chốn an cư. Kéo nhau lũ lượt tìm nơi ẩn Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ. Bình định còn chờ ngày nghỉ ngựa Thái bình những đợi buổi năm trư Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện trong câu thơ trên giống như một lão nông tri điền và một bậc tao nhân mặc khách, ông cáo quan về ở ẩn, tránh xa chốn quan trường bụi bặm về ẩn nơi thôn dã vui với thú điền viên, hòa mình với thiên nhiên cảnh vật. Zcv7BEc. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “nhà tiên tri số 1” của Việt Nam. Ông có những lời tiên tri bí ẩn ứng nghiệm sau đó vài trăm năm khiến ai nấy đều kinh ngạc. Nguyễn Bỉnh Khiêm thuở nhỏ tên Nguyễn Văn Đạt, sinh năm Tân Hợi 1491, dưới triều Lê Thánh Tông. Có một số tài liệu ghi chép cho rằng, Trạng Trình đổi tên khai sinh từ Nguyễn Văn Đạt thành Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ông chuẩn bị đi thi. Từ “Bỉnh Khiêm” có nghĩa là “giữ trọn tính khiêm nhường”. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh trưởng trong một dòng tộc danh gia. Cha ông là Thái Bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định, mẹ là bà Nhữ Thị Thục, tinh thông lý số, là con gái của quan Thượng thư Nhữ Văn Lân. Cụ Trạng mất năm ất Dậu 1585 hưởng thọ 94 tuổi. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được dân gian truyền tụng và suy tôn là nhà tiên tri số 1 của Việt Nam. Người Trung Hoa coi ông là “An Nam lý số hữu Trình tuyền”. Trong cuốn Phả ký Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết năm 1743, Vũ Khâm Lân từng nhận xét Ông là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế vè nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh… việc gì cũng biết trước”. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự đoán nhiều tương lai. Những lời dự đoán của ông được người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”. Cho đến những đời sau khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi khả năng tiên tri chính xác đến kinh ngạc của ông. Vào cuối thế kỷ 19, nhà sư Vương Quốc Chính, người xã Cổ Am Vĩnh Bảo, Hải Phòng phát động phong trào chống Pháp. Trước đó, dân gian lan truyền rộng câu sấm truyền của Trạng Trình “Thầy tăng mở nước trời không bảo”. Nghĩa đen chỉ rõ, không có trời nào giúp nhà sư, vì đã là người xuất gia theo Phật mà còn mưu đồ bá vương. Các nhà nho thời đó lại giải thích theo nghĩa khác, họ cho rằng, chữ “thầy tăng” ở đây là Trạng nói kín chỉ “thằng Tây” đến cướp ta, đô hộ dân ta thì trời không dung thứ. Ngày đó, chính quyền đô hộ và tay sai rất sợ sấm ký và uy tín của Trạng nên bắt bớ và khủng bố dã man những người đã truyền bá, lưu giữ sâm Trạng. Cho đến nay, Sấm Trạng vốn chỉ lại ở dạng truyền miệng, một số ít được lưu giữ ở dạng chép tay. Dưới đây là một số lời Sấm truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô” Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từng dùng tài lý số của mình để “cứu vãn” cho triều đình nhà Mạc tồn tại được một thời gian khá dài. Được biết, khi triều Mạc lâm nguy, vua Mạc đương triều sai người đến hỏi Trạng Trình. Ông đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Có nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì tồn tại được 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng và tồn tại được thêm 3 đời nữa. “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân” “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân” là lời sấm truyền Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ra cho nhà Nguyễn. Nhờ đó, nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi, đất nước ta mới có hình thái như bây giờ. Cụ thể, năm 1568, chúa Nguyễn Hoàng thấy anh là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết chết, thấy số phận của mình nguy cấp nên đã sai người đến diện kiến Trạng Trìn ở am Bạch Vân xin lời sấm. Cụ Trạng cầm tay sứ giả dắt ra hòn non bộ chỉ vào đàn kiến đang bò và nói “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân”, nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được. Hiểu được ý đó, Nguyễn Hoàng nhờ chị xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Hải Vân trở vào. Nhờ đó mà nhà Nguyễn xây dựng nên đế chế ở phương Nam. Sau này nhà Nguyễn đã đổi câu sấm của Trạng Trình thành “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi. Phải giữ được Biển Đông Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là người đầu tiên nhắc đến quốc hiệu Việt Nam. Ngoài câu “Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung”, cụ Trạng còn có lời tiên tri, dạy rằng “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình”. Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc, càng thấy rất “kim nhật kim thì”, rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay. Bài thơ nguyên là để nói cái chí của cụ “Chí những phù nguy xin gắng sức” Ngã kim dục triển phù nguy lực, nhưng lại đọng trong đó một tư tưởng chiến lược, một dự báo thiên tài “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/Đất Việt muôn năm vững trị bình/Vạn lý Đông minh quy bả ác/ức niên Nam cực điện long bình”. Nam Đàn sinh Thánh Từ lâu ở vùng Nghệ Tĩnh người ta lưu truyền những câu sấm truyền cảu Trạng Trình như Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch nghĩa là “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”. Nhà sử học Ngô Đăng Lợi Hải Phòng cho biết, sau khi Thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, những lời sấm truyền này được bàn tán xôn xao. Người dân mong chờ một vị thánh sống xuất thế. Lúc đó, khe Bồ Đái nước ngừng chảy do đó người dân càng tin hơn. Được biết, trong một cuộc gặp gỡ giữa cụ Phan Bội Châu và học giả Đào Duy Anh cùng nhà nho Trần Lê Hữu với nội dung tình thế nước nhà và tương lai. Trần Lê Hữu hỏi “Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!”. Phan Bội Châu đáp “Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ra thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác”. Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 Sau khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động thất bại vào tháng 2/1930, nhiều căn cứ bị Pháp đàn áp, khủng bố như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Kiến An, Vĩnh Bảo… Riêng làng Cổ Am bị 5 máy bay đến ném bom làm nhiều người chết, nhiều nhà cửa bị thiêu cháy đổ nát. Ở sự kiện này, tuần báo Phụ nữ tân văn số 44 có đăng bài “Ông Trạng Trình có biết trước rằng làng Cổ Am của ông có ngày nay không?”. Tác giả bài viết ngờ rằng Trạng có biết nên “đã rời hết sách vở của ông vào Thanh Hóa… vì theo di chúc của ông thì làng Cổ Am không được bền vững”. Đến số 48, Phụ nữ tân văn đã đăng một bài thơ do bạn đọc gửi đến được cho là lời Sấm của Trạng Trình “Hiu hiu gió thổi, lá rung cây/ Từ Bắc sang Nam, Đông tới Tây/ Cửa nhà tan tác ra cồn cát/ Rừng núi ruộng nương hóa vũng lầy/ Tan tác Kiến kiều An đất nước/ Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây/ Một gió, một Yên ai sùng Bái/ Cha con người Vĩnh, Bảo cho hay”. người dân sống trong làng Cổ Am cho biết, khi Pháp ném bom, miếu thờ Trạng bị đổ lây. Mấy tuần sau dân ra sửa sang thì phát hiện một tấm bia nhỏ có 3 hàng chữ Hán “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phục sanh/ Nhị ngũ dư bình”. Lúc này người ta phán đoán, Canh tức là năm Canh Ngọ 1930, còn ý tứ của 2 câu sau cho đến giờ vẫn đang còn tranh luận. Cách mạng Tháng Tám Theo một số nhà sưu tầm và nghiên cứu, Cách mạng Tháng Tám đã được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm dự báo qua câu thơ “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”. Ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn người. Câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập trước hàng vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà Nội. Liên quan đến sự kiện này, nhà sử học Ngô Đăng Lợi cũng sưu tầm 1 bài thơ trong nhân gian được cho là của Trạng Trình để lại “Rồng nằm bể cạn dễ ai hay năm thìn 1940/ Rắn mới hai đầu khó chịu thay năm tỵ 1941/ Ngựa để gác yên không ai cưỡi năm ngọ 1942/ Dê khan ăn lộc ngoảnh về tây năm mùi 1943/ Khỉ nọ bồng con ngồi khóc mếu năm thân 1944/ Gà kia xào xạc cất cánh bay năm dậu 1945/ Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa năm tuất 1946/ Lợn ủn ỉn ăn no ngủ ngày năm hợi 1947”. Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi, nếu để ý ở câu 6 thì ““Gà kia xào xạc cất cánh bay”, phải chăng là ám chỉ việc quân Pháp bị tước khí giới và phải trở về nước, trả lại nền độc lập cho chúng ta, vì chữ gaulois người Pháp do chữ latin gallus cũng có nghĩa là con gà. Theo đó, câu 6 của bài sấm ứng vào Cách mạng Tháng 8. Câu 7 “Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa” sẽ ứng với việc Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu lãnh tụ dân tộc Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước vào năm 1946 năm Bính Tuất. Theo Đỗ Thu Nga Trạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm là “nhà tiên tri ѕố 1” ᴄủa Việt Nam. Ông ᴄó những lời tiên tri bí ẩn ứng nghiệm ѕau đó ᴠài trăm năm khiến ai nấу đều kinh đang хem Lời tiên tri ᴄủa nguуễn bỉnh khiêm ᴠề báᴄ hồNguуễn Bỉnh Khiêm thuở nhỏ tên Nguуễn Văn Đạt, ѕinh năm Tân Hợi 1491, dưới triều Lê Thánh Tông. Có một ѕố tài liệu ghi ᴄhép ᴄho rằng, Trạng Trình đổi tên khai ѕinh từ Nguуễn Văn Đạt thành Nguуễn Bỉnh Khiêm khi ông ᴄhuẩn bị đi thi. Từ “Bỉnh Khiêm” ᴄó nghĩa là “giữ trọn tính khiêm nhường”.Nguуễn Bỉnh Khiêm ѕinh trưởng trong một dòng tộᴄ danh gia. Cha ông là Thái Bảo Nghiêm Quận ᴄông Nguуễn Văn Định, mẹ là bà Nhữ Thị Thụᴄ, tinh thông lý ѕố, là ᴄon gái ᴄủa quan Thượng thư Nhữ Văn Lân. Cụ Trạng mất năm ất Dậu 1585 hưởng thọ 94 tuổi. Trạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm đượᴄ dân gian truуền tụng ᴠà ѕuу tôn là nhà tiên tri ѕố 1 ᴄủa Việt Nam. Người Trung Hoa ᴄoi ông là “An Nam lý ѕố hữu Trình tuуền”.Trong ᴄuốn Phả ký Nguуễn Bỉnh Khiêm đượᴄ ᴠiết năm 1743, Vũ Khâm Lân từng nhận хét Ông là người khôi ngô anh tuấn, họᴄ hết ᴄáᴄ kinh ѕáᴄh lại rất tinh tế ᴠè nghĩa lý Kinh Dịᴄh. Phàm ᴠiệᴄ mưa nắng, lụt hạn, họa phúᴄ, điềm dữ, điềm lành, ᴄơ ѕuу, ᴄơ thịnh… ᴠiệᴄ gì ᴄũng biết trướᴄ”.Nguуễn Bỉnh Khiêm đã dự đoán nhiều tương lai. Những lời dự đoán ᴄủa ông đượᴄ người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”. Cho đến những đời ѕau khi ѕự ᴠiệᴄ хảу ra người ta mới giật mình bởi khả năng tiên tri ᴄhính хáᴄ đến kinh ngạᴄ ᴄủa ᴄuối thế kỷ 19, nhà ѕư Vương Quốᴄ Chính, người хã Cổ Am Vĩnh Bảo, Hải Phòng phát động phong trào ᴄhống Pháp. Trướᴄ đó, dân gian lan truуền rộng ᴄâu ѕấm truуền ᴄủa Trạng Trình “Thầу tăng mở nướᴄ trời không bảo”. Nghĩa đen ᴄhỉ rõ, không ᴄó trời nào giúp nhà ѕư, ᴠì đã là người хuất gia theo Phật mà ᴄòn mưu đồ bá nhà nho thời đó lại giải thíᴄh theo nghĩa kháᴄ, họ ᴄho rằng, ᴄhữ “thầу tăng” ở đâу là Trạng nói kín ᴄhỉ “thằng Tâу” đến ᴄướp ta, đô hộ dân ta thì trời không dung thứ. Ngàу đó, ᴄhính quуền đô hộ ᴠà taу ѕai rất ѕợ ѕấm ký ᴠà uу tín ᴄủa Trạng nên bắt bớ ᴠà khủng bố dã man những người đã truуền bá, lưu giữ ѕâm đến naу, Sấm Trạng ᴠốn ᴄhỉ lại ở dạng truуền miệng, một ѕố ít đượᴄ lưu giữ ở dạng ᴄhép taу. Dưới đâу là một ѕố lời Sấm truуền ᴄủa Trạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm“Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn ᴄô”Trạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm từng dùng tài lý ѕố ᴄủa mình để “ᴄứu ᴠãn” ᴄho triều đình nhà Mạᴄ tồn tại đượᴄ một thời gian khá biết, khi triều Mạᴄ lâm nguу, ᴠua Mạᴄ đương triều ѕai người đến hỏi Trạng Trình. Ông đã đưa ra lời ѕấm ᴄho nhà Mạᴄ “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn ᴄô”.Có nghĩa là nếu ᴄhạу lên Cao Bằng thì tồn tại đượᴄ 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạᴄ lên Cao Bằng ᴠà tồn tại đượᴄ thêm 3 đời nữa.“Hoành ѕơn nhất đái khả dĩ dung thân”“Hoành ѕơn nhất đái khả dĩ dung thân” là lời ѕấm truуền Nguуễn Bỉnh Khiêm đưa ra ᴄho nhà Nguуễn. Nhờ đó, nhà Nguуễn mới tiến ᴠào Nam mở rộng bờ ᴄõi, đất nướᴄ ta mới ᴄó hình thái như bâу thể, năm 1568, ᴄhúa Nguуễn Hoàng thấу anh là Nguуễn Uông bị Trịnh Kiểm giết ᴄhết, thấу ѕố phận ᴄủa mình nguу ᴄấp nên đã ѕai người đến diện kiến Trạng Trìn ở am Bạᴄh Vân хin lời Trạng ᴄầm taу ѕứ giả dắt ra hòn non bộ ᴄhỉ ᴠào đàn kiến đang bò ᴠà nói “Hoành ѕơn nhất đái khả dĩ dung thân”, nghĩa là một dải Hoành ѕơn ᴄó thể dung thân đượᴄ ý đó, Nguуễn Hoàng nhờ ᴄhị хin Trịnh Kiểm ᴄho ᴠào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Hải Vân trở ᴠào. Nhờ đó mà nhà Nguуễn хâу dựng nên đế ᴄhế ở phương nàу nhà Nguуễn đã đổi ᴄâu ѕấm ᴄủa Trạng Trình thành “Hoành ѕơn nhất đái ᴠạn đại dung thân” hу ᴠọng ѕẽ giữ đượᴄ ᴄơ nghiệp mãi giữ đượᴄ Biển ĐôngTrạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm đượᴄ хem là người đầu tiên nhắᴄ đến quốᴄ hiệu Việt Nam. Ngoài ᴄâu “Hoành ѕơn nhất đái khả dĩ dung”, ᴄụ Trạng ᴄòn ᴄó lời tiên tri, dạу rằng “Biển Đông ᴠạn dặm dang taу giữ/Đất Việt muôn năm ᴠững trị bình”.Xem thêm Bài thơ ᴄó tuổi đã khoảng 500 năm mà bâу giờ ᴄàng đọᴄ, ᴄàng thấу rất “kim nhật kim thì”, rất thời ѕự. Ta những tưởng như ᴄụ Trạng Trình đang nói ᴠới ᴄhính ᴄhúng ta hôm naу. Bài thơ nguуên là để nói ᴄái ᴄhí ᴄủa ᴄụ “Chí những phù nguу хin gắng ѕứᴄ” Ngã kim dụᴄ triển phù nguу lựᴄ, nhưng lại đọng trong đó một tư tưởng ᴄhiến lượᴄ, một dự báo thiên tài “Biển Đông ᴠạn dặm dang taу giữ/Đất Việt muôn năm ᴠững trị bình/Vạn lý Đông minh quу bả áᴄ/ứᴄ niên Nam ᴄựᴄ điện long bình”.Nam Đàn ѕinh ThánhTừ lâu ở ᴠùng Nghệ Tĩnh người ta lưu truуền những ᴄâu ѕấm truуền ᴄảu Trạng Trình như Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủу đáo Lam thành/ Nam Đàn ѕinh thánh”. Tạm dịᴄh nghĩa là “Khi núi Đụn ᴄhẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, ѕông Lam khoét ᴠào ᴄhân núi Lam Thành, đất Nam Đàn ѕẽ ѕinh ra bậᴄ thánh nhân”.Nhà ѕử họᴄ Ngô Đăng Lợi Hải Phòng ᴄho biết, ѕau khi Thựᴄ dân Pháp đàn áp tàn khốᴄ phong trào Xô ᴠiết Nghệ Tĩnh, những lời ѕấm truуền nàу đượᴄ bàn tán хôn хao. Người dân mong ᴄhờ một ᴠị thánh ѕống хuất thế. Lúᴄ đó, khe Bồ Đái nướᴄ ngừng ᴄhảу do đó người dân ᴄàng tin biết, trong một ᴄuộᴄ gặp gỡ giữa ᴄụ Phan Bội Châu ᴠà họᴄ giả Đào Duу Anh ᴄùng nhà nho Trần Lê Hữu ᴠới nội dung tình thế nướᴄ nhà ᴠà tương lai. Trần Lê Hữu hỏi “Thưa ᴄụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn ѕinh thánh” ᴄhẳng phải là ᴄụ haу ѕao? Cụ ᴄòn thất bại nữa là người kháᴄ!”. Phan Bội Châu đáp “Kể ᴄái nghề ᴄử tử хưa kia tôi ᴄũng ᴄó tiếng thật. Dân ra thường ᴄó thói trọng người ᴠăn họᴄ ᴠà gán ᴄho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn ᴄó thánh thựᴄ thì ᴄhính là ông Nguуễn Ái Quốᴄ ᴄhứ ᴄhẳng phải ai kháᴄ”.Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930Sau khởi nghĩa do Việt Nam Quốᴄ dân Đảng phát động thất bại ᴠào tháng 2/1930, nhiều ᴄăn ᴄứ bị Pháp đàn áp, khủng bố như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Kiến An, Vĩnh Bảo… Riêng làng Cổ Am bị 5 máу baу đến ném bom làm nhiều người ᴄhết, nhiều nhà ᴄửa bị thiêu ᴄháу đổ ѕự kiện nàу, tuần báo Phụ nữ tân ᴠăn ѕố 44 ᴄó đăng bài “Ông Trạng Trình ᴄó biết trướᴄ rằng làng Cổ Am ᴄủa ông ᴄó ngàу naу không?”. Táᴄ giả bài ᴠiết ngờ rằng Trạng ᴄó biết nên “đã rời hết ѕáᴄh ᴠở ᴄủa ông ᴠào Thanh Hóa… ᴠì theo di ᴄhúᴄ ᴄủa ông thì làng Cổ Am không đượᴄ bền ᴠững”.Đến ѕố 48, Phụ nữ tân ᴠăn đã đăng một bài thơ do bạn đọᴄ gửi đến đượᴄ ᴄho là lời Sấm ᴄủa Trạng Trình “Hiu hiu gió thổi, lá rung ᴄâу/ Từ Bắᴄ ѕang Nam, Đông tới Tâу/ Cửa nhà tan táᴄ ra ᴄồn ᴄát/ Rừng núi ruộng nương hóa ᴠũng lầу/ Tan táᴄ Kiến kiều An đất nướᴄ/ Xáᴄ хơ Cổ thụ ѕạᴄh Am mâу/ Một gió, một Yên ai ѕùng Bái/ Cha ᴄon người Vĩnh, Bảo ᴄho haу”.người dân ѕống trong làng Cổ Am ᴄho biết, khi Pháp ném bom, miếu thờ Trạng bị đổ lâу. Mấу tuần ѕau dân ra ѕửa ѕang thì phát hiện một tấm bia nhỏ ᴄó 3 hàng ᴄhữ Hán “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phụᴄ ѕanh/ Nhị ngũ dư bình”.Lúᴄ nàу người ta phán đoán, Canh tứᴄ là năm Canh Ngọ 1930, ᴄòn ý tứ ᴄủa 2 ᴄâu ѕau ᴄho đến giờ ᴠẫn đang ᴄòn tranh mạng Tháng TámTheo một ѕố nhà ѕưu tầm ᴠà nghiên ᴄứu, Cáᴄh mạng Tháng Tám đã đượᴄ Trạng Trình Nguуễn Bỉnh Khiêm dự báo qua ᴄâu thơ “Đầu Thu gà gáу хôn хao/ Trăng хưa ѕáng tỏ ѕoi ᴠào Thăng Long”.Ở ᴄâu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịᴄh, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm ѕự kiện lịᴄh ѕử nàу diễn ra, “gáу хôn хao” nghĩa là ᴄó tiếng ᴠang lớn, thứᴄ tỉnh muôn 2, “Trăng хưa” nghĩa là “ᴄổ nguуệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ ᴄủa Hồ Chủ tịᴄh. “Sáng tỏ ѕoi ᴠào Thăng Long” là ѕự kiện Báᴄ Hồ đọᴄ Tuуên ngôn độᴄ lập trướᴄ hàng ᴠạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình ᴄủa thủ đô Thăng Long – Hà quan đến ѕự kiện nàу, nhà ѕử họᴄ Ngô Đăng Lợi ᴄũng ѕưu tầm 1 bài thơ trong nhân gian đượᴄ ᴄho là ᴄủa Trạng Trình để lại “Rồng nằm bể ᴄạn dễ ai haу năm thìn 1940/ Rắn mới hai đầu khó ᴄhịu thaу năm tỵ 1941/ Ngựa để gáᴄ уên không ai ᴄưỡi năm ngọ 1942/ Dê khan ăn lộᴄ ngoảnh ᴠề tâу năm mùi 1943/ Khỉ nọ bồng ᴄon ngồi khóᴄ mếu năm thân 1944/ Gà kia хào хạᴄ ᴄất ᴄánh baу năm dậu 1945/ Chó ᴠe ᴠẩу đuôi mừng thánh ᴄhúa năm tuất 1946/ Lợn ủn ỉn ăn no ngủ ngàу năm hợi 1947”.Theo nhà ѕử họᴄ Ngô Đăng Lợi, nếu để ý ở ᴄâu 6 thì ““Gà kia хào хạᴄ ᴄất ᴄánh baу”, phải ᴄhăng là ám ᴄhỉ ᴠiệᴄ quân Pháp bị tướᴄ khí giới ᴠà phải trở ᴠề nướᴄ, trả lại nền độᴄ lập ᴄho ᴄhúng ta, ᴠì ᴄhữ gauloiѕ người Pháp do ᴄhữ latin galluѕ ᴄũng ᴄó nghĩa là ᴄon đó, ᴄâu 6 ᴄủa bài ѕấm ứng ᴠào Cáᴄh mạng Tháng 8. Câu 7 “Chó ᴠe ᴠẩу đuôi mừng thánh ᴄhúa” ѕẽ ứng ᴠới ᴠiệᴄ Quốᴄ hội nướᴄ Việt Nam Dân ᴄhủ Cộng hòa bầu lãnh tụ dân tộᴄ Hồ Chí Minh làm ᴄhủ tịᴄh nướᴄ ᴠào năm 1946 năm Bính Tuất. VTC News - Cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra, người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc của những câu sấm nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491–1585, người mà dân gian quen là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được người đời biết đến với tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam - Bắc triều cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt không chỉ nổi tiếng về văn chương, chính sự mà còn rất nổi tiếng về tài dự đoán. Trong cuốn Phả ký Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết vào năm 1743, Vũ Khâm Lân đã nhận xét “Ông là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế về nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh... việc gì cũng biết trước”.Đền thờ Trạng Trình ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những dự đoán tương lai bí ẩn, thường gọi là Sấm Trạng Trình, mà cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ 19, nhà sư Vương Quốc Chính, người xã Cổ Am Vĩnh Bảo, Hải Phòng, phát động phong trào chống Pháp đô hộ. Trước đó, trong dân gian đã lan truyền khá rộng câu sấm của Trạng “Thầy tăng mở nước trời không bảo”. Nghĩa đen đã khá rõ, không có trời nào giúp nhà sư, vì đã là người xuất gia tu theo Phật mà còn mưu đồ bá nhà nho thời ấy lại giải thích theo một nghĩa khác, theo họ thì chữ “thầy tăng” ở đây, Trạng nói kín chỉ “thằng Tây” đến cướp nước ta, đô hộ dân ta thì trời không dung thứ. Ngày ấy, chính quyền đô hộ và tay sai rất sợ sấm ký và uy tín của Trạng nên bắt bớ và khủng bố dã man những người đã truyền bá, lưu giữ sấm đến nay, rất tiếc là Sấm Trạng Trình vốn chỉ còn lại ở dạng truyền miệng, chỉ có số ít lưu giữ dưới dạng chép tay. Tuy nhiên, trong những tập sấm ký mà người đời sau sưu tầm được, khó có thể do những ai hiếu sự đã đặt ra, bởi nó đã được cố định hóa trước những sự kiện lịch sử hàng chục, hàng trăm năm, lại được lan truyền rộng rãi trong dân Đàn sinh thánh Đã từ lâu, ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là vùng Nghệ Tĩnh, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch nghĩa là “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.Nhà sử học Ngô Đăng Lợi Hải Phòng, người chuyên nghiên cứu về Sấm Trạng cho biết, sau khi thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này lại được bàn tán trao đổi rộng với niềm khát khao mong chờ vị thánh nhân xuất thế. Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa, do đó người dân càng tin và càng chờ một cuộc gặp giữa cụ Phan Bội Châu, học giả Đào Duy Anh, và nhà nho Trần Lê Hữu, nội dung cuộc đối thoại chỉ xoay quanh tình thế nước nhà và tương lai sẽ ra sao, Trần Lê Hữu có hỏi "Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!". Phan Bội Châu đáp "Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ra thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác".Khởi nghĩa Yên Bái 1930Sau cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động bị thất bại tháng 2 năm 1930 Canh Ngọ, nhiều căn cứ bị Pháp đàn áp, khủng bố dã man như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Kiến An, Vĩnh Bảo... Riêng làng Cổ Am bị 5 máy bay đến ném bom làm nhiều người chết, nhiều nhà cửa bị thiêu cháy, đổ nát. Nhân sự kiện này, tuần báo Phụ nữ tân văn số 44 có đăng bài “Ông Trạng Trình có biết trước rằng làng Cổ Am của ông có ngày nay không?”. Tác giả bài viết ngờ rằng Trạng có biết nên “đã dời hết sách vở của ông vào Thanh Hóa... vì theo di chúc của ông thì làng Cổ Am không được bền vững”.Sau đó, báo nhận được một bài thơ do bạn đọc sưu tầm và gửi cho, được cho là bài thơ sấm của Trạng Trình. Phụ nữ tân văn số 48 đã cho đăng bài thơ sấm đó “Hiu hiu gió thổi, lá rung cây/ Từ Bắc sang Nam, Đông tới Tây/ Cửa nhà tan tác ra cồn cát/ Rừng núi ruộng nương hóa vũng lầy/ Tan tác Kiến kiều An đất nước/ Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây/ Một gió, một Yên ai sùng Bái/ Cha con người Vỉnh, Bảo cho hay”.Có một người dân làng Cổ Am cho hay, khi Pháp ném bom xuống làng, miếu thờ Trạng bị đổ lây. Mấy tuần sau dân ra sửa sang lại thì phát hiện ra một tấm bia nhỏ khắc ba hàng chữ Hán theo lối triện “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phục sanh/ Nhị ngũ dư bình”.Lúc ấy người ta đoán Canh niên tức là năm Canh Ngọ 1930, còn ý tứ của 2 câu sau cho đến giờ vẫn đang còn tranh luận. Còn bài thơ sấm ở trên chắc chắn có trước năm 1930 và được lưu truyền, những địa danh lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái đều được phản ánh dưới dạng kín mạng Tháng 8Theo các nhà sưu tầm và nghiên cứu, trong các sự kiện lớn của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20, cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã được Trạng Trình dự báo qua câu thơ “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”.Theo luận giải, ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập trước hàng vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà sử học Ngô Đăng Lợi bên các tài liệu nghiên cứu về Sấm Trạng Trình Cũng liên quan đến sự kiện Cách mạng Tháng Tám, nhà sử học Ngô Đăng Lợi còn sưu tầm thêm một bài thơ trong dân gian, tương truyền là của Trạng Trình để lại “Rồng nằm bể cạn dễ ai hay năm thìn 1940/ Rắn mới hai đầu khó chịu thay năm tỵ 1941/ Ngựa để gác yên không ai cưỡi năm ngọ 1942/ Dê khan ăn lộc ngoảnh về tây năm mùi 1943/ Khỉ nọ bồng con ngồi khóc mếu năm thân 1944/ Gà kia xào xạc cất cánh bay năm dậu 1945/ Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa năm tuất 1946/ Lợn ủn ỉn ăn no ngủ ngày năm hợi 1947”.Nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho biết, nếu để ý tới câu thứ 6 thì “Gà kia xào xạc cất cánh bay”, phải chăng là ám chỉ việc quân Pháp bị tước khí giới và phải trở về nước, trả lại nền độc lập cho chúng ta, vì chữ gaulois người Pháp do chữ latin gallus cũng có nghĩa là con gà. Như vậy câu 6 của bài sấm ứng vào Cách mạng Tháng 8. Câu 7 “Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa” sẽ ứng với việc Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu lãnh tụ dân tộc Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước vào năm 1946 năm Bính Tuất.Phóng viên trao đổi với nhà sử học Ngô Đăng Lợi giai thoại về Sấm Trạng Trình Phần lớn các nhà Nho học nước ta cho rằng Trạng Trình am tường sâu sắc kinh Dịch và Lý học nên tiên tri ứng nghiệm. Những lời sấm chủ yếu là tiên đoán giai đoạn từ khi ông qua đời cho đến hôm nay. Các sự kiện như Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân; Cao Bằng tuy tiểu khả diên sổ thế; Nam Đàn sinh thánh... về sau đã ứng nghiệm một cách đáng kinh ngạc. Và còn rất nhiều những câu sấm còn lưu truyền trong dân gian vẫn đang là đề tài phân tích, lý Khang – Minh HảiGhi theo lời kể của nhà sử học Ngô Đăng Lợi Bổ ích Xúc động Sáng tạo Độc đáo Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585 huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Xuất thân từ một gia đình trí thức Nho học, cha là Nguyễn Văn Định có văn tài, học hạnh. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con thượng thư Nhữ Văn Lan, thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Cùng chúng tôi điểm qua những bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất trong bộ sưu tập sáng tác thơ bạn nhé! Chức phận làm con Phận làm con phải thông đạo hiếu, Phận làm dân phải hiểu chữ trung. Trên ra lệnh, dưới phục tùng, Cha làm việc tốt, con cùng làm theo. Của cải nhiều dùng lâu cũng hết, Chữ hiếu trung hưởng mãi vô cùng. Bàn mưu tư lợi thì đừng, Bàn điều chân chính, nên cùng tham gia. Làm tốt chớ ba hoa kể lể, Hoa sớm nở, thì hoa dễ sớm tàn. Cẩn thận đáng giá ngàn vàng, Phải suy nghĩ kỹ hãy làm mới hay. Người tốt hay xắn tay làm phúc, Giúp ai không lợi dụng người ta. Người biết lỗi, sửa thì tha, Trị người có tội, chớ mà quá nghiêm. Dạy điều thiện, đừng nên tham quá, Để người học có khả năng theo Khoan hòa sẽ được tin yêu, Siêng năng cần mẫn ắt nhiều thành công. Nói thận trọng thì không sợ lỗi, Làm thận trọng đỡ hối về sau. Thế lực dù mạnh đến đâu, Nếu đem dùng hết, ắt sau hại mình. Hoặc cậy thế tạo thành phúc lộc, Hẳn rằng sau cũng chẳng ra gì. Cứ đường chính đạo mà đi, Hiếu, Trung, Nhân, Nghĩa nghĩ suy mà làm. Nói về giàu sang Bài thứ ba bàn sự giàu sang Giàu với sang ai chả ước mong, Nhưng giàu sang chẳng chính công, Là phi đạo đức, hẳn không lâu bền. Ai sống kẻ nghèo hèn cũng chán, Nhưng bất lương đuổi hẳn chẳng đi. No cơm hẩm thiết gì thịt cá, Vui cảnh nghèo, quên cả giàu sang. Người quyền quý, lắm bạc vàng, Lấy gương xử với họ hàng mà soi. Ở phải đạo, nhiều người giúp đỡ, Sống bất lương, ít chỗ thân tình. Thà nghèo giữ được thơm danh, Hơn giàu lắm chuyện phẩm bình, cười chê. Bọ ngựa rình con ve định bắt, Chim sẻ rình bọ sát phía sau… Tiếng tăm lừng lẫy càng nhiều, Tránh xa kẻ xấu sinh điều ghét ghen. Nhiều tài cũng lắm phen khốn khổ, Nhiều công là cái hố suy bì. Nhớ rằng đừng cậy, chẳng khoe, Phải luôn thận trọng chớ hề phô trương. Nói với bạn việc ngay ý thẳng, Phải người tham họ chẳng nghe đâu. Nói với quan chuyện thanh cao, Phải quan tham nhũng hẳn sau nó trù. Đại nghĩa Bài thứ tư nêu câu Đại nghĩa Dạy cho người ta biết để khuyên nhau. Trung với nước đặt lên hàng đầu, Đạo cha con được xếp vào đại luân. Trai tài biết thương dân, thủ tiết, Gái kiên trinh phải biết giữ mình. Người tài nước được thơm danh, Vợ giỏi như được ngọc lành trời cho. Gái bất chính thì cho chẳng lấy, Trai có tài mắc bẫy thì ngu. Bất trung dễ mắc mưu thù, Minh quân như mù mới lấy làm quan. Con dân thường chăm ngoan học giỏi, Cũng có ngày tiến tới làm quan, Con quan chẳng chịu học hành, Suốt đời cũng chỉ làm anh dân thường. Làm quan chức, thấm ơn chế độ, Có nuôi con, mới nhớ được công cha. Muốn lòng ngay thẳng thật thà, Rèn luyện ý trí phải là đầu tiên. Chí thiện Bài thứ năm Tâm linh chí thiện Mong tốt lành mọi chuyện công tư. Rất vui là đọc thi thư, Việc đời mệt nhất ấy là dậy con. Cha nghiêm phụ răn con hiếu thảo, Mẹ nhân từ dạy bảo gái ngoan. Nhà lành hương toả chi lan, Ở lâu chẳng thấy mùi thơm ngạt ngào. Gần kẻ ác như vào chợ cá, Buộc người ta quen cả mùi tanh. Có nết tốt chẳng kiêu căng, Đức dày thêm mãi tạo thành thói quen. Giàu chớ kiêu chớ nên ích kỷ, Sang cũng đừng xa sỉ, hợm đời. Việc làm muốn tốt tuyệt vời, Ba lần căn nhắc hẳn hoi mới làm. Suy tính kỹ bao hàm hai ý Việc chung riêng thấu lý đạt tình. Từ xưa vẫn sợ, vẫn kinh, Lòng người nham hiểm nảy sinh khó lường Kẻ tiểu nhân mưu đồ xảo quyệt, Thích mưu đồ tiêu diệt người ngay. Cho dù hiểm độc, quắt quay, Không qua lẽ phải, chẳng xoay đạo trời. Kẻ bất nhân nhất thời nổi tiếng, Không người thì trời diệt chẳng tha Tự nhiên được của đầy nhà, Một là lộc lớn, hai là họa to Có lúc bại, trời cho thắng cuộc, Hoặc đang nghèo bỗng được giầu sang. Thế gian yêu lắm ghét nhiều, Khen nhiều chê lắm, bao điều bất an. Mừng nhiều lo lắm chẳng oan, Vinh nhiều nhục lắm, thế gian thường tình. Đừng cậy thế mà sinh kiêu ngạo, Chớ cậy quyền để tạo lợi riêng. Làm một điều thiện cũng nên, Trừ một việc ác quả nhiên rất cần. Sinh sự thì bận tâm mệt sức, Nên nhún nhường tạo Đức thì hơn. Việc chuẩn bị kỹ hãy làm, Việc không chuẩn bị chớ tham làm bừa. Bao kinh nghiệm từ xưa đã thấy, Sai một ly đi mấy dặm đường. Quả quyết được việc lẽ thường, Đắn đo hỏng việc, ấy gương ở đời. Sắc chẳng mê người, chính người mê sắc, Rượu chẳng say người, chỉ tại người say. Đừng nên vui quá nói chầy, Chớ vì sướng quá vung tay làm liều. Quý chim phượng bởi yêu lông cánh, Trọng người hiền ở cách nói năng. Gặp khi hoạn nạn khó khăn, Hành vi tế nhị, nói năng lựa lời. Mười mắt rồng và mười tay trỏ Thật công minh sáng tỏ sâu xa Quả đào người quý tặng ta, Ta lấy quả mận đem ra biếu người. Cung nỏ lạ chớ cầm mà khốn, Ngựa chẳng quen, chớ cưỡi mà ngã. Qua ruộng dưa chớ sửa giầy, Dưới gốc mận chớ giơ tay sửa đầu. Coi chừng chốn cửa cao nhà rộng, Đừng cậy rằng tông tộc mình to. Họ to lắm chuyện tò mò, Cửa cao thường giở những trò kiêu căng. Người tốt, chơi nói năng chân thật, Kẻ xấu, chơi như mật chết ruồi. Người tốt bền chí thức thời, Khó khăn thuận lợi vẫn nuôi chí bền. Kẻ xấu thường van xin lúc khó, Được việc rồi thì nó quên luôn. Mới hay muôn sự vui buồn Những điều chí thiện phải luôn ghi lòng. Thiện ác Bài thứ sáu Hai dòng Thiện–Ác Là hai điều thật khác nhau xa Trăm năm trong cõi người ta, Dở, hay báo ứng, thật là công minh. Báo ứng có khi nhanh, khi chậm, Nhà tối, nghèo nào dám coi khinh. Việc làm phúc nếu vô tình, Như tuồng lánh nạn, đáng khinh khỏi bàn. Kẻ bạo ngược mưu toan việc xấu, Bịp được người sao giấu được trời Vầng dương mọc lặn luân hồi, Mặt trăng tròn khuyết, đầy rồi lại cong. Tình người cũng tụ, xong lại tán, Buồn lại vui, vui chán lại buồn. Cỏ hoa sớm nở tối tàn, Cây tùng cây bách muôn ngàn sức xuân. Mỗi ngày xét bản thân ba lượt Đêm nhiều người sẽ biết cho ta. Số trời vốn sẵn định ra, Giàu sang có mệnh, vinh hoa có ngày. Hoa nở muộn do cây cằn cỗi, Đời chưa vui, bởi nỗi khổ nghèo. Giàu sang, khách đến thăm nhiều, Nghèo hèn, thân thích ra chiều cách ly. Lúc dư dật, phòng khi túng thiếu, Khi sướng vui, phải liệu khi buồn. Một nhà nề nếp cương thường, Cha từ, con thảo, đẹp gương vợ chồng. Tình anh em thuận lòng nhân ái, Nghĩa bạn bè qua lại giúp nhau. Người con phòng lúc ốm đau. Chứa thóc phòng đói là câu chí tình. Giúp người gặp cảnh tình nguy cấp, Hoặc cứu người trong lúc gian nguy. Có mới đừng nới cũ đi, Tiếng nói một nẻo, bụng suy một đằng. Chớ có lành bắt vành ra méo, Đừng làm cho bé xé ra to. Một chút tà tất quanh co, Người ta sẽ tỏ các trò quắt quay. Lời không cánh mà bay khắp ngả, Đạo đức cao thì gốc cả, rễ sâu. Ngọc vết mài chẳng khó đâu, Nói sai, biết sửa bao lâu mới lành. Lời đã nói bay nhanh hơn gió, Bốn ngựa phi cũng khó đuổi theo. Khinh người là thói tự kiêu, Người ta khinh lại, đời nào chịu thua. Tự khen mình mà chê người hỏng, Thì người ta có trọng gì mình. Hãy suy Thiện–Ác, Nhục–Vinh Ở sao có nghĩa có tình thì hơn. Việc gia thất muốn yên mọi sự Mỗi người nên biết xử phận mình Đừng mưu lấy của bất minh Chớ ghen ghét với người mình còn thua. Vợ người ta chớ đùa cợt nhả, Đừng gièm pha quấy phá hôn nhân. Một năm có một mùa xuân, Mỗi ngày chỉ một giờ dần đầu tiên. Cháy nhà có nước liền dễ chữa, Láng giềng cần giúp đỡ lẫn nhau. Tình đời lắm chuyện thương đau, Anh em để mẩt lòng nhau thật buồn. Người xưa bảo thói quen thường vẫn vậy, Đàn bà thì khó dạy khó chiều. Quân tử phép chẳng cần theo, Tiểu nhân chẳng chấp những điều lễ nghi. Thấy ai có vật gì quý giá, Chớ lân la tán gạ, nài xin. Công việc nào quá khó khăn, Đừng buộc người khác phải lăn vào làm. Muốn trách người, phải xem mình trước. Nếu tha mình, tha được người ta. Đứa bất chính, kẻ gian tà, Kết thân với chúng dễ mà tàn thân. Không minh bạch miếng ăn lời nói, Là nguyên nhân cái tội hại mình. Lúc trẻ lao động nhiệt tình, Khi già cuộc sống gia đình thảnh thơi. Trẻ mà lêu lổng chơi bời, Về già chắc hẳn cuộc đời gian truân. Của cho con đâu cần vàng ngọc Mà cho con được học được hành. Cho muôn khoảnh ruộng tốt xanh, Chẳng bằng cho chúng nghề lành trong tay. Mộng làm giầu thường hay thất đức, Làm điều nhân khó được giầu sang. Thuốc hay khó chữa bệnh oan, Của nhặt được khó mở mang giầu bền. Bất nghĩa mà trở nên phú quý, Như mây bay bọt khí nổi trôi. Phúc do trong sạch lòng người, Đức từ kiên nhẫn sống đời yêu thương. Tham lam lắm tất vương tai họa, Sống bất nhân tội chả thoát đâu. Tiểu nhân chẳng giúp ai đâu, Bởi trong lòng họ, như đầu mũi kim. Chỉ gai góc rắp tìm mưu kế, Cốt hại người để mong lợi mình. Người quân tử có bất bình, Liệu mà xa lánh, kẻo sinh hận thù. Tình người khác chi tờ giấy trắng, Như cuộc cờ vốn chẳng giống nhau. Khéo mà ứng xử với nhau, Đừng làm ai đó phải chau đôi mày, Chớ mạt sát day tay mắm miệng, Để người ta phải nghiến hàm răng. Ngựa gầy nên kém chạy hăng, Người không hồ hởi phải chăng vì nghèo. Sẵn tiền, rượu thì nhiều bạn đấy, Lúc lâm nguy nào thấy một ai. Luật trời báo ứng chẳng sai, Không trước mắt, cung lâu dài chứng minh. Tích thiện Bài thứ bẩy khuyên luôn tích thiện, Chứa điều lành như mặt trời lên. Rất vô tư, rất tự nhiên, Sáng soi muôn nẻo chẳng phiền đến ai. Chứa điều ác là tai họa đấy, Lửa trên đầu nào thấy mà lo. Chuyện ác dù chẳng nói to, Trên trời rung động tự hồ sấm vang. Việc mờ ám tưởng không ai biết, Nhưng mắt thần như điện sáng soi. Giầu sang đúng phận thì thôi, Nghèo hèn xử sự đúng môi trường nghèo. Suy từ ta ra nhiều người khác, Khoe điều lành, điều ác giấu đi. Thấy ai làm ác điều gì, Khéo can ngăn, hoặc nghoảnh đi chớ nhìn. Chuyện người khác không đem đàm tiếu, Mặc người ta, mạnh, yếu, giở, hay. Nói nhiều nghe cũng chán chầy, Khuyên nhiều sinh oán, bấy nay lẽ thường Khi yêu cũng nên lường lúc ghét, Lúc ghét nên nhớ đến khi yêu. Việc làm, lời nói, ít nhiều, Phải nên hướng thiện, phải theo phận mình. An phận Giữ yên phận là bài thứ tám Đừng để người đụng chạm đến ta Biết lo tính, biết phòng xa, Khoan dung ngay thẳng hẳn là sống lâu. Nước chân chính, lòng trời cũng thuận, Quan thanh liêm dân hẳn yên lòng Vợ hiền là phúc nhà chồng, Các con hiếu thảo thì lòng cha yên. Dẫu có tài giỏi chớ nên khoe khoác, Nhiễu sự sao bằng được an nhàn. Bốn mùa ấm lạnh xuềnh xoàng, Nói năng thận trọng rõ ràng được yên. Của dễ được tất nhiên dễ mất, Được vất vả thì mất khó khăn. Làm thong thả việc chắc ăn Việc đời muôn sự khó khăn ban đầu. Người xưa nói những câu triết lý Vào núi bắt hổ dễ như chơi, Còn khi mở miệng dạy người, Khó khăn nhiều lắm, liệu lời đắn đo. Quân tử cần ăn no uống đủ, Không cầu kỳ cốt giữ bình yên. Trò tìm thầy học dễ tìm, Thầy tìm trò tựa mò kim đáy hồ. Việc chia chác chẳng lo ít ỏi, Chỉ đáng lo cái tội không đều. Không lo hoàn cảnh túng nghèo, Chỉ lo xã hội nhiều điều bất công. Quá nham hiểm bởi lòng tham lắm. Quá nhẫn tâm lòng hẳn quá tàn. Đại đạo Giữ đại đạo là bài thứ chín, Lấy chữ “Trung” chữ “Tín” làm đầu. Người quân tử đạo đức cao, Không kiêu thái, giữ trước sau chan hòa. Khi cần giúp người ta việc gấp, Chẳng chọn ngày, đừng bấm ngón tay. Người được ta cũng mừng thay, Người đau, thông cảm đắng cay cho người. Nói thao thao ngàn lời tươm tất, Cũng không bằng việc thật đã làm. Kiếm lời chê trách nhân gian, Chính là chuốc lấy mối oan hại mình. Ta giúp người chân tình độ lượng, Là góp điều làm phước đáng tin. Trăm nghe không bằng một nhìn, Một việc thực tế hơn nghìn lời suông. Việc trời đất cũng thường thay đổi, Sáng gió mưa, chiều đã đẹp trời. Giống như cuộc sống một con người Sáng chiều, may rủi đầy vơi chuyển vần. Có việc đối với ta như thế Nhưng với người đâu rễ giống ta Khi lời nói trái phát ra, Tất nhiên cái họa cũng sà vào theo. Của phi nghĩa đưa vào cửa trước, Nó cũng tìm đường bước lối sau. Đừng làm những chuyện không đâu Chớ tham của lạ để sau bận lòng Việc đừng quá lao tậm cật lực, Nên đắn đo vừa sức thì làm, Không lười biếng chẳng tham lam Học điều Đại đạo – để làm thực tâm. Học vấn Bài mười lăm răn đường học hỏi. Có tư duy mạnh giỏi hơn người. Trước là đẹp đạo đất trời, Sau là xây dựng tình người đẹp hơn. Hiếu với cha thời con hiếu lại, Kính trọng người người lại trọng ta. Chớ tin những thuyết tà ma, Nó làm chìm đắm xấu xa lòng người. Người xưa bảo tiền tài – phấn đất, Nghĩa nhân kia mới thật là ngàn vàng. Đường dài thử sức gian nan, Sống lâu mới biết ruột gan tình người. Biết giữ phận thì đời nhàn hạ, Không gian tham tai họa khó vào. Vận đen vàng hóa ra thau, Vận đỏ sắt cũng ra màu vàng tươi. Rượu trắng nhuốn đỏ mặt người Bạc vàng dễ nhuộm lòng người tối đen. Nghèo giữa chợ ai thèm thăm hỏi, Giàu trên rừng có khối người thương. Vẽ hổ khó vẽ bộ xương, Biết người biết mặt khó lường lòng ai. Không đáng sợ sức hai con hổ, Chỉ sợ người ăn ở hai mang Sống đại lượng phúc huy hoàng. Mưu sâu tai họa ắt càng thêm sâu. Vợ chồng hiệp sức nhau bàn bạc, Có tiền mua nhiều lạng vàng dòng. Vợ chồng ăn ở khác lòng Có tiền đâu dễ sắm cùng cái kim Trị nhà như cầm cương ngựa dữ, Trị nước như dạo thử cung đàn. Cho nên học hiểu và làm, Lẽ trời với lẽ dân gian hài hòa, Muốn xây phú quý vinh hoa, Cái nền học vấn phải là đâu tiên. Tu đức Bài mười sáu thường xuyên tu đức, Phải chuyên tâm nỗ lực hàng ngày. Học rồi thực tế làm ngay, Rút ra kinh nghiệm dở hay sự tình. Tu đức tốt tướng sinh ra tướng, Con thảo hiền sinh được cháu ngoan. Nhà nghèo nhờ vợ đảm đang, Nước loạn cầu tướng giỏi giang, trung thành. Âm dương hòa không sinh lụt bão, Vợ chồng hòa thì đạo nhà nên. Tránh điều nghi kỵ hờn ghen, Đàn bà tiếp khách phải nên nhớ rằng Cử chỉ đẹp, nói nhẹ nhàng, Khi đưa tiễn khách xin đừng quá chân. Bốn đức tính Công, Dung, Ngôn, Hạnh, Người đàn bà gánh nặng lo toan. Đừng kiêu sa, chớ lăng loàn, Đừng ghen ghét chớ giận hờn với ai. Gái yêu chồng đẹp vui mọi vẻ, Giúp chồng nuôi con khỏe con ngoan. Dựng xây tôn thống họ hàng, Sáng trong như ngọc, nết càng đẹp ra. Khi lòng dục dâm tà đã mở, Quên yêu thương bỏ cả lễ nghi. Nết hư dù chỉ một ly, Tiếng tăm đồn đại bay đi khắp vùng. Lương tài Bài mười tám răn chữ lương tài Lương là đạo cao đức trọng Có lương tài chết sống thơm danh. Người tài lành có bạn lành, Người ác bạn ác kết thành tai ương. Người lương tài nên thường nói thẳng, Kẻ xấu xảo nịnh chẳng thương yêu. Người lành nói ít làm nhiều, Tiểu nhân múa mép, lắm điều ba hoa. Người lành không gian tà uẩn khúc, Hành động luôn chính trực, phân minh. Kiệm cần có lý có tình, Để không mang tiếng rằng mình kiêu sa. Vụng may áo gấm cũng hỏng, Làm bậy thì phá hỏng cơ ngơi. Biết ít thì sống thảnh thơi, Biết nhiều lắm chốn, lắm điều thị phi. Người giúp việc cần chi đẹp xấu, Cần chọn người trung hậu, chăm ngoan. Lòng người, nọc rắn khó phân, Mặt trời ai biết chuyển vần như xe. Của xóm Đông lấy về hôm trước, Đến hôm sau nó ngược xóm Đoài Việc hôm nay, việc ngày mai. Hãy đem hai chữ Lương Tài mà xem. Thịnh đức Bài hai mươi là thiên thịnh đức Một số điều đã được rút ra. Người thực tài chẳng ba hoa, Thường khi dung mạo cứ là như ngây. Có ruộng không cấy cày thì đói, Có sách không học hỏi thì ngu. Trai không dạy, khác chi lừa, Gái ngu thì cũng giống như lợn sề. Trai sợ vợ bởi vì nhu nhược, Gái kính chồng vì được nết ngoan. Phải dè xẻn bởi thiếu ăn, Sống xa xỉ bởi nguyên nhân của thừa. Vừa lười nhác, lại vừa ngu xuẩn, Thì giầu sang đâu đến mà mơ. Hay đến thân cũng thành sơ, Ngồi dai chủ chẳng bao giờ thích đâu. Uống rượu đấu khẩu nhau ít chứ, Mới là người quân tử phòng thân. Thóc tiền sòng phẳng đồng cân, Mới là đức độ, tinh thần trượng phu. Con cá bị giật lên bờ Có hối cũng chẳng bao giờ được tha. Làm việc xấu đã sa pháp luật, Hối ba lần cũng thật muộn mằn. Nước loạn chớ đến dung thân Nơi nguy hiểm chớ bước chân lần vào. Phép quyền biến làm sao biết trước, Phải đắn đo mong được an toàn, Lò lửa ví như phép quan, Lòng người như sắt như gang trong lò Người yếu phải nương nhờ người mạnh, Giúp được người là hạnh phúc thay, Không thù dai chẳng hại ai, Tuy nhiên vẫn phải nhớ bài phòng thân. Trên lượng cả, chẳng cần phạt dưới, Kẻ trịch thượng từ chối đừng chơi. Nước trong ít cá lội bơi, Sống nhiều khe khắt, ít người mến thân. Hiếu hoàn Bài hai mươi mốt hai chữ hiếu hoàn. Hiếu hoàn luật xoay vần vay trả, Báo ứng nhanh gương đã nhiều rồi. Nhạt nồng khéo ở lòng người, Dở hay đã có đạo trời phân minh. Trời mưa gió thình lình bất chắc, Người có khi dồn dập tai ương. Có đức dễ được thọ trường, Tu nhân tích đức, phúc thường dầy thêm. Lừa dối người là mầm tai họa, Phúc dầy nhờ lượng cả bao dung. Cẩn thận chẳng sợ khốn cùng, Nhẫn thì chẳng nhục, vạ không đến mình. Sống bình tĩnh được yên lành mãi Biết kiệm cần đỡ phải reo neo. Trên sông tùy khúc bơi chèo, Vào nhà tùy lúc liệu chiều tuân theo. Dạy con cháu bằng điều từ thiện, Lấy khoan dung điều khiển người theo. Một năm kế hoạch ăn tiêu, Không gì bằng cấy trồng nhiều lúa khoai Kế mười năm dài hơn một chút, Không gì bằng trồng được nhiều cây. Còn như kế hoạch lâu dài, Là trồng cây đức dẻo dai liền liền. Dù lắm tiền thuốc men tẩm bổ, Chẳng bằng đêm nằm ngủ riêng giường. Dạy con lần mở văn chương, Ở trong vùng bạc kim cương có thừa. Một con được ơn vua lộc nước, Để cả nhà cũng được thơm lây. Siêng năng học tập đêm ngày, Để mà chiêm nghiệm lời này khuyên răn. Việc đúng cứ tiến hành đừng sợ, Trời sẽ cho phúc ở tầm tay Lấy điều đạo lý xưa nay, Truyền cho con cháu đời này đời sau. Thú nhàn Lẩn thẩn ngày qua tháng qua, Một phen xuân tới một phen già. Ái ưu vằng vặc trăng in nước, Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa. Án sách hãy còn án sách cũ, Nước non bạn với nước non nhà. An phận thì hơn Giàu ba bữa khó hai niêu, An phận thời hơn hết mọi điều. Khát uống trà mai hơi ngột ngột, Sốt kề hiên trúc gió hiu hiu. Giang sơn tám bức là tranh vẽ, Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu. Thong thả hôm rằm sớm thức, Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu. Lòng thư thái Vinh nhục bao phen hẳn đã từng Lòng người sự thể dửng dừng dưng Khen thì nên tốt, chê nên dại Mất cũng chẳng âu được chẳng mừng Có ai biết được lòng tri kỷ Vời vợi non cao nguyệt một vừng Điền viên thú Trải gian nguy đã mấy phen, Thân nhàn phúc lại được về nhàn. Niềm xưa trung ái thề chăng phụ, Cảnh cũ điền viên thú đã quen. Ba quyển đồ thư thu nặng túi, Một thuyền phong nguyệt chở đầy then, Trời cũng biết nơi lành dữ, Hoạ phúc chăng dung cái tóc chiên. Thú ẩn dật Một cơ yêu nhọc đổi thay điều Yêu bao nhiêu thì nhọc bấy nhiêu. Tham phải cái công danh luỵ, Muốn cho con tạo hoá trêu. Vui vườn Lạc Xã năm khách, Lánh đất Nam Dương một lều. Khuyên đời Mựa chê người vắn, cậy ta dài, Dù kém dù hơn ai mặc ai. Vị nọ có bùi, không có đượm, Thức kia chầy thắm, lại chày phai. Dù hay phận mới, yên dầu phận, Dẫu có tài hơn, chớ cậy tài. Quân tử niệm đời nơi xuất xử, Ắt cùng khôn hết cả hoà hơi. Mặc chê khen Thị phi chẳng quản mặc chê khen, Ngu dại trần trần tính đã quen. Cảnh cũ điền viên tìm tính cũ, Khách nhàn sơn dã dưỡng thân nhàn. Nhà thông đường trúc lòng hằng mến, Cửa mận tường đào bước ngại chen. Sự thế tuần hoàn hay đắp đổi, Từng xem thua được một hai phen. Dại khôn Làm người có dại mới nên khôn, Chớ dại ngây chi, chớ quá khôn. Khôn được ích mình, đừng để dại, Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn. Khôn mà hiểm độc là khôn dại, Dại vốn hiền lành ấy dại khôn. Chớ lấy rằng khôn khinh kẻ dại, Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn. Thú dưỡng thân Mới hay phú quý bởi thời vần, Tua sá ngang tàng thú dưỡng thân. Bất ý miệng ngâm câu quốc ngữ, Giải phiền tay chuốc chén quỳnh xuân. Đường hoa chào khách mặt nhìn mặt, Ngõ hạnh đưa người chân đá chân. Dẫu có ai han thời sẽ nhủ Thái bình thiên tử, thái bình dân. Tiêu sái tự nhiên Tiêu sái tự nhiên ắt nhẹ mình, Nài bao quyền cả áng công danh. Vô tâm nước có gương soi bạc. Đắc thú kho đầy gió mát thanh. Trẻ dầu biết cơ tạo hoá, Già lọ phục thuốc trường sinh. Thanh nhàn dẫu được qua ngày tháng, Non nước còn xem chốn hữu tình. Của nặng hơn người Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười, Có của thì hơn hết mọi lời. Trước đến tay không nào đoái hỏi, Sau vào nặng túi lại vui cười. Anh anh chú chú mừng hơ hải, Rượu rượu chè chè thết tả tơi. Người của lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơn người. Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6 tháng 4 năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông 13 tháng 5 1491, ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Cha của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định người huyện Vĩnh Lại là người có tướng sinh quý tử. Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn Tuyết Giang nối đôi bờ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại “Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế”, qua đó cho thấy người mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ. Những sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Thể loại sáng tác Thơ chữ Hán Bài chi tiết Bạch Vân am thi tập Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết “… Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân” Bạch Vân am thi tập tiền tự. Thơ chữ Nôm Bài chi tiết Bạch Vân quốc ngữ thi tập Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc. Các thể loại khác Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ cả chữ Hán và chữ Nôm còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia bi ký nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh… Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa. Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm ký Nôm thường mang tên Trạng Trình Sấm Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm ký, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm. Những giá trị của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri… Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Trên đây là một số những sáng tác nổi bật của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm do đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng với những thông tin trên đây sẽ giúp bạn có thêm nhiều hiểu biết hơn về nhà thơ bạn nhé! Xem thêm +666 Lời Chúc Buổi Tối Vui Vẻ và Lãng Mạn nhất Anh Ngữ Quốc Tế Ocean Edu +222 Hình tô màu máy bay trực thăng cho bé đẹp Hướng dẫn cách chọn mua mành tre cuốn sushi tốt nhất Top 20 Trường THPT tại Hà Nội nổi tiếng đào tạo tận tâm nhất

nguyễn bỉnh khiêm tiên tri về bác hồ